“Ngành vật liệu xây dựng của Việt Nam sẽ thuộc tốp đầu trên thế giới“

Thị phần vật liệu xây dựng ( VLXD ) năm 2020 được nhìn nhận là bức tranh nhiều sắc màu khi bị tác động ảnh hưởng không ít cùng với nhịp chững của thị trường bất động sản nhưng vẫn có những điểm sáng cải tiến vượt bậc, ngày càng có những góp phần quan trọng với nền kinh tế tài chính. Các doanh nghiệp vật liệu xây dựng đang dần nâng cao năng lực thích ứng với công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng mẫu sản phẩm, hướng đến thị trường xuất khẩu .

Liên quan đến vấn đề này, Reatimes đã có cuộc phỏng vấn với PGS.TS. Lê Trung Thành, Viện trưởng Viện Vật liệu Xây dựng. 

PV: Dưới góc độ của quản lý Nhà nước về vật liệu xây dựng, ông có thể đưa ra một vài đánh giá về tình hình phát triển của thị trường này trong năm 2020 vừa qua?

PGS.TS. Lê Trung Thành: Thị trường VLXD trong năm 2020 nhìn chung vẫn có sự tăng trưởng dù nền kinh tế có khó khăn do tác động của dịch Covid-19.

Tổng sản lượng xi-măng đến năm 2020 đạt khoảng chừng 101,74 triệu tấn ; gạch ốp lát đạt 575 triệu mét vuông ; sứ vệ sinh đạt 19 triệu mẫu sản phẩm ; kính xây dựng đạt 280 triệu mét vuông ; gạch xây nung, gạch không nung 30 tỷ viên ; cung ứng nhu yếu trong nước .Đây là những số lượng ấn tượng cho thấy, rõ ràng nghành VLXD có góp phần rất lớn vào sự tăng trưởng chung về kinh tế tài chính xã hội của quốc gia cũng như sự tăng trưởng riêng của ngành xây dựng .Nếu quy đổi sang giá trị kinh tế tài chính, những mẫu sản phẩm VLXD tiêu thụ ước tính phải đạt hơn 22 tỷ USD trong năm 2020, tương tự mức góp phần khoảng chừng 6,5 đến 7 % vào quy mô nền kinh tế tài chính của quốc gia .

vật liệu xây dựng

Thị phần VLXD trong năm 2020 nhìn chung vẫn có sự tăng trưởng dù nền kinh tế tài chính có khó khăn vất vả do ảnh hưởng tác động của dịch Covid-19 .PV: Sự chững lại của thị trường bất động sản trong năm qua ảnh hưởng liên đới như thế nào đến ngành VLXD, thưa ông?

PGS.TS. Lê Trung Thành: Đúng là thị trường VLXD tăng hay giảm có mối liên hệ mật thiết với thị trường bất động sản vì đầu ra của các sản phẩm VLXD chính là để phục vụ xây dựng nhà ở, văn phòng, khu công nghiệp và các công trình hạ tầng kỹ thuật khác. Tuy nhiên, chúng ta cần nhìn nhận rõ đây là mối liên hệ của thị trường VLXD trong nước, còn phần VLXD xuất khẩu thì không liên quan đến thị trường bất động sản của nước ta.

Chẳng hạn, tiêu thụ xi-măng trong nước từ năm ngoái – 2019 là khoảng chừng 57 – 65 triệu tấn, thì số liệu về thị trường bất động sản có tăng dần đều trong những năm này. Tuy nhiên, năm 2020 gặp phải ảnh hưởng tác động của đại dịch Covid-19, 1 số ít mô hình bất động sản du lịch, công nghiệp bị ngừng trệ đã dẫn đến tiêu thụ xi-măng trong nước giảm xuống mức khoảng chừng 62 triệu tấn ( tức là thấp hơn khoảng chừng 3 triệu tấn so với năm 2019 ). Nhung tổng sản lượng tiêu thụ xi-măng gồm có cả xuất khẩu vẫn đạt khoảng chừng 100 triệu tấn, tăng hơn so với năm 2019 khoảng chừng 3 triệu tấn .

PV: Vâng! Phải thừa nhận rằng, xuất khẩu là hướng đi quan trọng giúp cho sản phẩm xi măng trở thành điểm sáng trên thị trường. Vậy theo ông, ngoài việc khắc phục những khó khăn bằng việc nâng cao, chất lượng, mẫu mã sản phẩm để hướng đến thị trường xuất khẩu thì các doanh nghiệp ngành VLXD nên làm gì để tiếp tục trụ vững và vượt qua các thách thức của thị trường trong thời gian tới?

PGS.TS. Lê Trung Thành: Về cơ bản, các doanh nghiệp nhóm tốp đầu trong sản xuất VLXD đã thích ứng, bắt nhịp và làm chủ rất nhanh với công nghệ, có thể kể đến các nhà máy chủ chốt của các doanh nghiệp nhà nước VICEM, VIGLACERA,… hay của doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp ngoài nhà nước như INSEE, SCG, Saint-Gobain Việt Nam, Xuân Thành, EuroWindow, NISHU,… Nhiều nhà máy đã làm chủ tất cả các khâu công nghệ từ nguyên liệu, tạo hình sản phẩm đến hoàn thiện, đóng gói xuất xưởng với phương châm tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, sử dụng nguyên liệu tái chế, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường.

Tuy nhiên, cạnh bên đó, vẫn còn những nhà máy sản xuất sản xuất VLXD sử dụng công nghệ tiên tiến cũ, chưa tăng cấp nâng cấp cải tiến, quy mô nhỏ lẻ, hiệu suất lao động thấp, chất lượng loại sản phẩm chưa đồng đều, không thay đổi, cũng như chưa chú trọng công tác làm việc bảo vệ thiên nhiên và môi trường .Tôi cho rằng, những doanh nghiệp VLXD lúc này càng cần phải nâng cấp cải tiến, update công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng loại sản phẩm, giảm chi phí sản xuất để hạ giá tiền, nâng cao năng lượng quản trị và năng lượng cạnh tranh đối đầu để trụ vững trong thời gian khó khăn vất vả này và tăng trưởng bền vững và kiên cố trong tương lai .

Các doanh nghiệp VLXD lúc này càng cần phải cải tiến, cập nhật công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất để hạ giá thành, nâng cao năng lực quản trị và năng lực cạnh tranh để trụ vững trong thời điểm khó khăn này và phát triển bền vững trong tương lai.

PV: Vậy vai trò của Viện Vật liệu Xây dựng trong việc xây dựng và thực hiện các mục tiêu, chiến lược phát triển được thể hiện như thế nào trong thời gian qua, thưa ông?

PGS.TS. Lê Trung Thành: Là đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ Nhà nước trực thuộc Bộ Xây dựng, nhiều năm qua Viện Vật liệu Xây dưng đã tập trung nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật công nghệ góp phần thực hiện chiến lược phát triển ngành Xây dựng đạt chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu thời đại.

Năm 2020, Viện Vật liệu Xây dựng thực thi thành công xuất sắc những tiềm năng chính về điều tra và nghiên cứu chủ trương ship hàng công tác làm việc quản trị nhà nước, điều tra và nghiên cứu khoa học công nghệ tiên tiến và tiến hành những dịch vụ khoa học công nghệ tiên tiến, góp phần quan trọng vào tăng trưởng chung của ngành Xây dựng .Về điều tra và nghiên cứu chủ trương Giao hàng công tác làm việc quản trị nhà nước, chúng tôi đã tập trung chuyên sâu triển khai xong điều tra và nghiên cứu xây dựng Chiến lược tăng trưởng VLXD thời kỳ 2021 – 2030 và xu thế đến năm 2050. Chiến lược tiên phong của vương quốc về tăng trưởng VLXD đã chính thức được Thủ tướng nhà nước phê duyệt tại Quyết định số 1266 / QĐ-TTg ngày 18/8/2020 .Ngoài ra, Viện Vật liệu Xây dựng đã bộc lộ đậm nét vai trò Trưởng ban kỹ thuật tiêu chuẩn, quy chuẩn về Vật liệu và Cơ khí xây dựng do Bộ trưởng Bộ Xây dựng giao, tổ chức triển khai họp Ban kỹ thuật liên tục và tích cực tham gia nghiên cứu và điều tra hoàn thành xong mạng lưới hệ thống tiêu chuẩn nghành nghề dịch vụ vật liệu xây dựng và cơ khí xây dựng, góp thêm phần quan trọng tiến hành hiệu suất cao Đề án Hoàn thiện mạng lưới hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật xây dựng theo Quyết định số 198 / QĐ-TTg ngày 9/2/2018 của Thủ tướng nhà nước .Viện Vật liệu Xây dựng luôn đi đầu về việc triển khai công tác làm việc kiểm định, ghi nhận chất lượng, hợp chuẩn, hợp quy những chủng loại VLXD để Giao hàng công tác làm việc quản trị chất lượng khu công trình xây dựng và sản xuất của những doanh nghiệp .Về công tác làm việc điều tra và nghiên cứu khoa học công nghệ tiên tiến, Viện Vật liệu Xây dựng đã bộc lộ rõ vai trò là đơn vị chức năng nghiên cứu và điều tra đầu ngành cũng như mạnh trong hợp tác quốc tế với những dự án Bất Động Sản điều tra và nghiên cứu lớn cấp Nhà nước và cấp Bộ như Nghiên cứu hoàn thành xong công nghệ tiên tiến sử dụng tro bay thay thế sửa chữa đất sét trong sản xuất clanhke xi-măng ; Nghiên cứu sản xuất và ứng dụng bê tông nhẹ cường độ cao trên cơ sở hạt vi cầu từ tro bay và phụ gia nano cho khu công trình gia dụng và công nghiệp ; Nghiên cứu công nghệ tiên tiến tái chế polyurethane phế thải làm vật liệu cách nhiệt ; Nghiên cứu ứng dụng công nghệ tiên tiến in 3D trong sản xuất VLXD tính năng cao ; Nghiên cứu tái chế, sử dụng bùn đỏ, bùn thải nạo vét lòng sông, tro, xỉ của những xí nghiệp sản xuất nhiệt điện và xí nghiệp sản xuất luyện gang thép, tro xỉ lò đốt chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt làm VLXD ; Nghiên cứu sản xuất xi-măng siêu ít clanhke ; …

PV: Nhìn vào chiến lược phát triển VLXD quốc gia đang đặt ra, ông dự báo như thế nào về bức tranh tổng thể của thị trường VLXD trong thập kỷ tới?

PGS.TS. Lê Trung Thành: Trong 10 năm tới, VLXD nước ta chắc chắn vẫn là một lĩnh vực quan trọng, có đóng góp đáng kể đến sự nghiệp phát triển của đất nước nói chung cũng như đối với ngành xây dựng nói riêng. Ngành VLXD của Việt Nam sẽ thuộc tốp đầu trên thế giới.

Đến năm 2030, dự báo sản lượng 1 số ít chủng loại VLXD đa phần ước đạt như sau : Xi măng 125 – 145 triệu tấn ( xuất khẩu 25 – 35 triệu tấn ), gạch ốp lát 670 – 690 triệu mét vuông ( xuất khẩu 130 – 140 triệu mét vuông ), sứ vệ sinh 37 – 43 triệu mẫu sản phẩm ( xuất khẩu 7 – 8 triệu mẫu sản phẩm ), kính xây dựng giữ không thay đổi 210 – 250 triệu mét vuông ( xuất khẩu 10 – 20 triệu mét vuông ), gạch xây đất sét nung giảm xuống 22 – 25 tỷ viên quy tiêu chuẩn, vật liệu xây không nung tăng lên 16 – 20 tỷ viên quy tiêu chuẩn, bê tông 250 – 270 triệu mét khối những loại .Các doanh nghiệp tiếp cận và ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, quản trị nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ; Sử dụng hiệu suất cao tài nguyên, triệt để tiết kiệm chi phí nguồn năng lượng, nguyên vật liệu, nguyên vật liệu ; Hạn chế tối đa tác động ảnh hưởng tới thiên nhiên và môi trường trong quy trình khai thác, chế biến tài nguyên làm vật liệu xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng ; Loại bỏ công nghệ tiên tiến sản xuất vật liệu xây dựng lỗi thời, tiêu tốn nhiều tài nguyên, gây ô nhiễm thiên nhiên và môi trường .

Với những bước đi đó, ngành VLXD nước ta sẽ ngày càng hiệu quả, bền vững, các sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước, xuất khẩu có chọn lọc các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế./.

Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!

Nguồn: Reatimes.vn