Các chỉ số đo lường lạm phát. – Tài liệu text

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.34 KB, 21 trang )

số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự ổn định giá cả.

2. Các chỉ số đo lường lạm phát.

Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế thông thường dựa trên dữ liệu
được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này. Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với
nhau để đưa ra một mức giá cả trung bình, gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức
giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá
trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.
Khơng tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ
thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
• Chỉ số giá sinh hoạt CLI là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng CPI được giả định một cách
xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay khơng việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là sự thiên lệch trong
phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi sự ngang giá sức mua để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực chúng
dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung. • Chỉ số giá tiêu dùng CPI đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi người
tiêu dùng thơng thường một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát
thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có khoản chi trả danh định
tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có
Trang 4
tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát
thực tế và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra. • Chỉ số giá sản xuất PPI đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được khơng tính
đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là khơng
bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh tốn. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều
người tin rằng điều này cho phép một dự đốn gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI ngày mai dựa trên lạm phát PPI ngày hôm nay, mặc dù thành phần của các
chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
• Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán bn thơng thường là trước khi bán có thuế một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI.
• Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng.
Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc. • Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính tốn của tổng sản phẩm quốc nội: Nó
là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế GDP danh định với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực. Nó là
phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính tốn các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang
đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính tốn các chính sách kiềm chế lạm phát của mình.
• Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân PCEPI. Trong Báo cáo chính sách tiền tệ cho Quốc hội sáu tháng một lần Báo cáo Humphrey-Hawkins ngày 17 tháng 2 năm
2000, Federal Open Market Committee FOMC nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phí
tiêu dùng cá nhân.
Trang 5

3. Các loại lạm phát phân theo mức độ.

Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế thông thường dựa trên dữ liệuđược thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này. Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp vớinhau để đưa ra một mức giá cả trung bình, gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mứcgiá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giátrung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.Khơng tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụthuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:• Chỉ số giá sinh hoạt CLI là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng CPI được giả định một cáchxấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay khơng việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là sự thiên lệch trongphạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi sự ngang giá sức mua để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực chúngdao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung. • Chỉ số giá tiêu dùng CPI đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi ngườitiêu dùng thơng thường một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phátthông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có khoản chi trả danh địnhtăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động cóTrang 4tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phátthực tế và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra. • Chỉ số giá sản xuất PPI đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được khơng tínhđến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là khơngbằng với những gì người tiêu dùng đã thanh tốn. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiềungười tin rằng điều này cho phép một dự đốn gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI ngày mai dựa trên lạm phát PPI ngày hôm nay, mặc dù thành phần của cácchỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.• Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán bn thơng thường là trước khi bán có thuế một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI.• Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng.Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc. • Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính tốn của tổng sản phẩm quốc nội: Nólà tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế GDP danh định với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực. Nó làphép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính tốn các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bangđã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính tốn các chính sách kiềm chế lạm phát của mình.• Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân PCEPI. Trong Báo cáo chính sách tiền tệ cho Quốc hội sáu tháng một lần Báo cáo Humphrey-Hawkins ngày 17 tháng 2 năm2000, Federal Open Market Committee FOMC nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phítiêu dùng cá nhân.Trang 5