MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC, KỸ THUẬT CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC – Tài liệu text

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC, KỸ THUẬT CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.45 MB, 45 trang )

Báo cáo viên số 1:
Chuyên đề II
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC, KỸ
THUẬT CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC
2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
2.1.1. Khoa học
Thuật ngữ “khoa học” là một khái niệm phức tạp ở nhiều mức độ khác nhau
của quá trình tích cực nhận thức hiện thực khách quan và tư duy trừu tượng. Trong
lịch sử phát triển của khoa học đã có nhiều định nghĩa khác nhau về khoa học.
Tổng hợp và khái quát lại có thể đưa ra định nghĩa về khoa học như sau: Khoa
học là hệ thống tri thức (về thuộc tính, cấu trúc, mối liên hệ bản chất, qui luật ..v..v..)
của sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy, mà những tri thức
trong hệ thống này có được dựa trên những nghiên cứu khoa học (chứ không phải
dựa trên những kinh nghiệm). Khoa học còn bao gồm hệ thống tri thức về những biện
pháp tác động đến thế giới xung quanh làm biến đổi thế giới đó phục vụ cho lợi ích
của con người
Vì vậy, người ta thường gọi hệ thống tri thức này là hệ thống tri thức khoa học.
Cần phân biệt tri thức khoa học với tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm
là những hiểu biết được tích lũy một cách rời rạc, có thể là ngẫu nhiên từ kinh
nghiệm sống. Từ quá trình cảm nhận và xử lý các vấn đề trong cuộc sống mà những
kinh nghiệm, hiểu biết được tích lũy hàng ngày, ban đầu còn riêng lẻ, rời rạc, về sau
hình thành những mối liên hệ mang tính hệ thống. Tuy nhiên, những hiểu biết mang
tính kinh nghiệm này đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống và cũng là một cơ
sở cho sự hình thành các tri thức khoa học.
2.1.2. Nghiên cứu khoa học
NCKH là hoạt động có mục đích, kế hoạch, theo phương pháp khoa học nhằm
xây dựng tri thức khoa học mới (về thuộc tính, cấu trúc, hành vi, qui luật ..v..v..) của
sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy, trong đó bao gồm cả
phương pháp mới và phương tiện kĩ thuật mới phục vụ cho cuộc sống con người.
Nghiên cứu khoa học là sự phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa
học về thế giới; hoặc sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để làm

biến đổi sự vật phục vụ cho mục tiêu hoạt động của con người.
2.1.3. Phương pháp NCKH
Phương pháp NCKH là con đường, cách thức nghiên cứu để đặt ra câu hỏi
khoa học và giải quyết vấn đề (trả lời câu hỏi khoa học) thông qua quan sát và thực
nghiệm.
NCKH để xây dựng tri thức khoa học là một quá trình, thường gồm các giai
đoạn sau:
– Đặt ra câu hỏi khoa học (về một vấn đề khoa học trong một lĩnh vực nào đó);
– Nghiên cứu tổng quan về những kết quả nghiên cứu đã được công bố về vấn
đề đó;
– Đưa ra giả thuyết khoa học (mà nhờ giả thuyết này có thể trả lời câu hỏi khoa
học đã nêu ở trên;
– Kiểm tra giả thuyết khoa học bằng thực nghiệm;
– Phân tích dữ liệu thực nghiệm và rút ra kết luận;
– Trình bày và đánh giá kết quả nghiên cứu.

Việc nắm được các bước này giúp tổ chức quá trình suy nghĩ và lập kế hoạch
triển khai nghiên cứu đúng đắn.
2.1.4 Thành tựu khoa học đặc biệt
Trong những kết quả NCKH do cộng đồng xã hội làm ra, có một số kết quả, do
ý nghĩa của nó hết sức to lớn, từ đó làm thay đổi cơ bản nhận thức của con người về
tự nhiên, xã hội và tư duy, làm thay đổi môi trường, điều kiện sống của con người,
được gọi là phát minh, phát hiện hay sáng chế.
a) Phát minh: là sự khám phá ra những quy luật, những tính chất hoặc những
hiện tượng của thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan mà trước đó chưa ai biết,
nhờ đó làm thay đổi cơ bản nhận thức của con người. Phát minh không có giá trị
thương mại, không có khái niệm cấp bằng phát minh và không được bảo hộ pháp lý.
Ví dụ: Archimet phát minh định luật về lực đẩy của nước, Lebedev phát minh
tính chất áp suất của ánh sáng…

b) Phát hiện: là sự khám phá ra những vật thể, những quy luật xã hội đang tồn
tại một cách khách quan. Giống như phát minh, phát hiện không có giá trị thương
mại, không được bảo hộ pháp lý và cũng không có khái niệm cấp bằng phát minh.
Ví dụ: Kock phát hiện vi trùng lao, Marie Curie phát hiện nguyên tố phóng xạ
radium, Colombo phát hiện châu Mỹ…
c) Sáng chế: là một giải pháp kỹ thuật mới về nguyên lý kỹ thuật, tính sáng tạo
và áp dụng được. Sáng chế có khả năng áp dụng nên có ý nghĩa thương mại, được
cấp bằng sáng chế độc quyền (patent), có thể mua bán bằng sáng chế, cấp giấy phép
sử dụng (licence) và được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Ví dụ: James Watt sáng chế ra máy hơi nước; Nobel sáng chế ra công thức
thuốc nổ TNT…
2.2. QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Trong khuôn khổ cuộc thi KHKT cho học sinh trung học, hai loại dự án được
nghiên cứu nhiều đó là dự án khoa học và dự án kỹ thuật. Việc tiến hành nghiên
cứu với hai loại dự án trên được tiến hành với những quy trình khác nhau.
Năm 2013 có tất cả các lĩnh vực nghiên cứu của học sinh như sau:
Lĩnh vực
Số dự án
1. Kỹ thuật điện và cơ khí
33
2. Khoa học môi trường
18
3. Khoa học xã hội và hành vi
13
4. Khoa học máy tính
13
5. Vật liệu và công nghệ sinh học
12
6. Hoá học
10

7. Quản lý môi trường
9
8. Hoá sinh
8
9. Khoa học thực vật
7
10. Vật lý và thiên văn học
6
11. Năng lượng và vận tải
5
12. Khoa học động vật
2
13. Sinh học tế bào và Phân tử
2
14. Khoa học Trái đất và hành tinh
1
15. Toán học
1
16. Y khoa và khoa học sức khoẻ
1

17. Vi trùng học
0
2.2.1. Qui trình thực hiện dự án khoa học (Science Fair Project) (Phát Minh,
Phát hiện)
Dưới đây là qui trình thực hiện dự án khoa học đã được sơ đồ hoá.

Hình 2.1: Quy trình thực hiện dự án khoa học
Qui trình này gồm các giai đoạn sau:

a. Đặt câu hỏi (Ask Question):
Hoạt động nghiên cứu khoa học thực sự chỉ và luôn bắt đầu bằng việc đặt một
câu hỏi về một điều gì đó người nghiên cứu quan sát được. Các câu hỏi thường sử
dụng các dạng: Như thế nào (How), Cái gì (What), Khi nào (When), Ai (Who), Điều
gì (Which), Tại sao (Why), hay Ở đâu (Where).
Câu hỏi nghiên cứu thường hỏi về: Sự tồn tại (Existence) ví dụ như Trẻ sơ sinh
có nhận biết được màu không?; Miêu tả, phân loại (Description, Classification) ví dụ
như Đặc điểm của sự chú ý là gì?; Thành phần (Composition) ví dụ như Những yếu
tố nào tạo nên chỉ số IQ? ; Mối liên hệ (Reletionship) ví dụ như Sự tập trung chú ý có
ảnh hưởng tới chỉ số IQ không?; Mô tả, so sánh (Descriptive- Comparative) ví dụ
như Trí nhớ của người trẻ tuổi có tốt hơn trí nhở của người già? ; Quan hệ nhân quả
(Causality) vsi dụ như Luyện tập có dẫn tới kỹ năng không? ; Quan hệ nhân quả, so
sánh ( Causality – Comparative) ví dụ như Tập aerobic có tốt hơn luyện tập giải
quyết vấn đề trong việc nâng cao nhận thức của người cao tuổi?
Câu hỏi nghiên cứu đòi hỏi yêu cầu là : Khả thi ( Feasible); Thú vị
(Interesting); Mới lạ (Novel); Đạo đức (Ethical); Liên quan (Relevant ).

Để hình thành câu hỏi nghiên cứu cần xuất phát theo sơ đồ:
Chủ đề RỘNG
Broad topic

Chủ đề HẸP
Narrowed
topic

Chủ đề QUAN TÂM
Focused topic

Câu hỏi NC

Research Question

Sức khoẻ
Phụ nữ

Phụ nữ
và bệnh ung thư vú

Phụ nữ hút thuốc
Và ung thý vú

Có hay không mối liên hệ giữa
hút thuốc là và bệnh ung thư vú ở
phụ nữ

Để trả lời được câu hỏi, cần phải tiến hành các thí nghiệm để có thể đo lường
được với những kết quả cụ thể.
Việc đặt câu hỏi nghiên cứu phụ thuộc vào sự am hiểu của người nghiên cứu
tới chủ đề quan tâm, vào tư duy phản biện, sự say mê nghiên cứu khoa học của người
nghiên cứu. Câu hỏi thường xuất hiện trong quá trình học tập, vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, tham khảo thông tin khoa học từ các nguồn khác nhau, quan sát các hiện
tượng, quá trình xảy ra trong tự nhiên, xã hội hay ở các thí nghiệm hoặc khi phân
tích, xử lí số liệu thu được từ các hiện tượng, quá trình này.
Một số câu hỏi thường được đặt ra trước tiên để dẫn dắt tới câu hỏi nghiên cứu,
ví dụ như: từ lý thuyết này có thể dẫn tới những hệ quả nào; có thể xem xét đối tượng
từ những góc độ nào; từ lý thuyết này có thể ứng dụng trong thực tế như thế nào; vấn
đề gì còn tồn tại trong cuộc sống chưa được giải quyết; những gì con người đang
quan tâm giải quyết nhiều nhất; có cách nào khác tốt hơn không; có thể cải tiến sản
phẩm này như thế nào; tương lai, điều gì sẽ xảy ra…
Ví dụ: Tại sao bầu trời mầu xanh; Ngôi sao là gì và tại sao nó chuyển động vào

ban đêm; Âm thanh là gì; Tại sao lá mầu xanh; Tại sao quả bóng lại bị nổ khi thổi
căng; tại sao miền bắc Việt Nam mùa hè thì nóng, mùa đông thì lạnh; làm thế nào để
phát hiện rau, hoa quả nhiễm chất bảo vệ thực vật bằng mắt thường; nguyên nhân dẫn
tới xe máy, ô tô bốc cháy trong thời gian vừa qua là gì…
b. Nghiên cứu tổng quan (Do Background Research):
Nội dung phần này cần tìm kiếm và xem xét những kiến thức cơ bản liên quan
tới lĩnh vực nghiên cứu, các công trình nghiên cứu và những kết quả có liên quan đã
công bố, thông qua việc tìm hiểu thông tin tại thư viện, trên Internet…Qua đó, sẽ
tránh được những sai lầm và biết được hướng nghiên cứu có thực sự cần và khả thi
không.

Để làm được việc này, phương pháp được sử dụng chủ yếu là nghiên cứu tài
liệu liên quan tới đề tài/dự án. Đó là những thông tin khoa học về cơ sở lý thuyết; các
thành tựu lý thuyết đã đạt được; kết quả nghiên cứu đã được công bố trên các ấn
phẩm; các số liệu thống kê; chủ trương, chính sách liên quan…Trên cơ sở đó, hình
thành danh mục tham khảo; đánh giá những thành tựu cũng như những tồn tại của các
công trình có liên quan; xem xét mức độ ý nghĩa và khả thi của câu hỏi nghiên cứu đã
đặt ra.
c. Xây dựng giả thuyết (Construct Hypothesis):
Giả thuyết khoa học cần cẩm bảo các yêu cầu:

Testable – Có thể kiểm chứng

Falsifiable – Có thể bác bỏ

Parsimonious – Đõn giản nhất có thể

Precise – Cụ thể, rõ ràng, chính xác

Usefull – Hữu ích

Sound reasoning – Có cở sở

Clearly states the relationship between the defined variables – Làm rõ mối liên
hệ giữa các biến

Easy to measure variables – Dễ đo các biến

Testable in a reasonable amount of time – Khả thi về TG
Giả thuyết được xem như câu trả lời dự kiến cho câu hỏi nghiên cứu và thường
được phát biểu bằng câu có mệnh đề “nếu…thì….”. Đồng thời giả thuyết cũng cần
được xây dựng dựa trên những cơ sở lý thuyết và căn cứ khoa học và phát biểu sao
cho dễ dàng cho việc đánh giá và kiểm chứng.
Một giả thuyết được kiếm chứng là đúng thì giả thuyết được thừa nhận và trở
thành một luận điểm khoa học bổ sung cho nhận thức của con người và được sử dụng
trong các công trình nghiên cứu tiếp theo. Một giả thuyết bị bác bỏ cũng có thể được
coi như một kết quả nghiên cứu vì nó đã khẳng định được rằng: trong khoa học,
không có điều như giả thuyết đã nêu ra. Trong bài, sự ra đời và cái chết của các ý
tưởng, Genle viết: “Khi một giả thuyết phải lùi bước trước cuộc tấn công của những ý
tưởng mới có nghĩa giả thuyết đã chết một cách vẻ vang”
Sau đây là ví dụ về những giả thuyết: “phải chăng, sự khác nhau về nhiệt độ
giữa mùa hè và mùa đông ở miền bắc việt nam là do khoảng cách từ mặt trời đến trái
đất thay đổi”; hay “sự khác nhau về nhiệt độ giữa mùa hè và mùa đông ở miền bắc
việt nam là do sự quay của trái đất quanh trục nghiêng của nó”; “xe máy, ô tô cháy là
do xăng không chuẩn” hay “xe máy, ô cháy là cho chập hệ thống điện”…
d. Kiểm chứng (giả thuyết) bằng thực nghiệm (Test with an Experiment):
Để kiểm chứng một giả thuyết là đúng hay sai, cần phải sử dụng thực nghiệm.
Một thực nghiệm sẽ được thiết kế và thực hiện để làm việc đó. Điều quan trọng là
thực nghiệm phải được tiến hành một cách đúng đắn nhất, nghĩa là, cần đảm bảo

thực nghiệm được tiến hành với sự thay đổi của một yếu tố trong khi các yếu tố khác
được giữ nguyên. Cũng cần tiến hành thực nghiệm một vài lần hoặc theo những cách
thức khác nhau để đảm bảo kết quả thu được là ổn định và chính xác nhất (không
phải là ngẫu nhiên).
Trong một thực nghiệm kiểm chứng, thường có 3 yếu tố biến đổi (gọi là biến)
cần được xem xét trong tiến trình thực hiện. Trong đó, biến do người nghiên cứu chủ
động biến đổi được gọi là biến độc lập (independent variable), biến thay đổi do sự
biến đổi của biến độc lập gây ra và được nhà khoa học đo đạc và ghi lại sự thay đổi

đó gọi là biến phụ thuộc (dependent variable), biến cần giữ ở trạng thái ổn định trong
quá trình thực nghiệm được gọi là biến kiểm soát (controlled variable).
Để đảm bảo thành công và cho kết quả chính xác, thực nghiệm cần được thiết
kế trước theo một tiến trình và hướng đến việc kiểm chứng hay bác bỏ giả thuyết.
Cần tiến hành đo đạc cẩn thận sự thay đổi của các biến và ghi chép đầy đủ để thuận
lợi cho việc phân tích và kết luận.
Trong nhiều trường hợp, không thể kiểm chứng trực tiếp giả thuyết được mà
phải suy ra các hệ quả từ giả thuyết bằng con đường suy luận diễn dịch lôgic.
e. Phân tích kết quả và kết luận (Analyze Results Draw Conclusion):
Sau khi hoàn thành thí nghiệm, các dữ liệu thu được sẽ được phân tích và tổng
hợp để khẳng định tính đúng, sai của giả thuyết. Giả thuyết có thể sai, khi đó, cần xây
dựng giả thuyết mới và tiếp tục kiếm chứng giả thuyết mới bằng thực nghiệm. Ngay
cả khi giả thuyết đúng, người nghiên cứu có thể sử dụng cách khác để kiểm chứng
lại nhằm tăng độ tin cậy của kết luận.
Kết quả có thể được phân tích trên cả hai phương diện, định tính và định
lượng.
Xử lý thông tin định lượng là việc sắp xếp các số liệu thu được để làm bộc lộ
ra các mối liên hệ và xu thế của sự vật với nhiều định dạng khác nhau như con số rời
rạc, bảng số liệu, biểu đồ, đồ thị. Trong nhiều trường hợp, cần dựa trên các số liệu
thu được để tính toán ra các đại lượng khác, suy ra mối quan hệ khác nhằm hỗ trợ

việc kiểm chứng giả thuyết. Xử lý định tính là dựa trên số liệu rời rạc, khái quát hóa
và đưa ra những kết luận khái quát về mối liên hệ bản chất giữa các sự kiện.
Khi phân tích kết quả cũng cần xem xét tới các yếu tố sai số có thể có trong thí
nghiệm như các sai số ngẫu nhiên, sai số kỹ thuật hay sai số hệ thống.
f. Báo cáo kết quả (Report Results):
Để kết thúc dự án khoa học, kết quả nghiên cứu cần được trình bày, thảo luận,
công bố hay tham gia dự thi.
Bản báo cáo kết quả của nghiên cứu có thể trình bày theo cấu trúc như sau:
Tên đề tài/dự án; tóm tắt đề tài/dự án nghiên cứu; mục lục; câu hỏi nghiên cứu
và giả thuyết khoa học;báo cáo tổng quan; danh mục các vật tư, thiết bị; trình tự thí
nghiệm; phân tích dữ liệu và thảo luận; kết luận; hướng phát triển của đề tài/dự án;lời
cảm ơn; tài liệu tham khảo.
Bản báo cáo phải nêu bật được ý nghĩa, tính mới của đề tài/dự án cũng như thể
hiện được phương pháp nghiên cứu mang tính khoa học, hợp lí, cách phân tích, xử lí
số liệu là khoa học để từ đó khẳng định được kết luận rút ra là khách quan, chính xác
và tin cậy.
Ví dụ: Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài “Chế tạo máy phát điện cải tiến giá
rẻ cho người nghèo ở vùng núi đặc biệt khó khăn”
LỜI CẢM ƠN!
Nhóm nghiên cứu khoa học thuộc đề tài “Chế tạo máy phát điện cải tiến giá
rẻ cho người nghèo ở vùng núi đặc biệt khó khăn” chân thành cảm ơn đến các
thầy cô trong Ban lãnh đạo trường THPT số 2 huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai cùng các
thầy cô giáo đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ trong suốt thời gian chúng em thực hiện đề
tài.
Chúng em chân thành cảm ơn lãnh đạo, bà con nhân dân bản Lúc – xã Bảo Hà huyện Bảo Yên – tỉnh Lào Cai đã tạo điều kiện và tận tình giúp đỡ để chúng em thử
nghiệm thành công máy phát điện.

Nhóm nghiên cứu chân thành cảm ơn các thầy cô cố vấn thuộc bộ Vật lý
trường THPT số 2 huyện Bảo Yên đã hướng dẫn, giúp đỡ về kỹ thuật để nhóm

nghiên cứu hoàn thành đề tài này.
Cuối cùng, nhóm nghiên cứu xin gửi lời chia sẻ, lòng biết ơn đến gia đình, bạn
bè luôn động viên và tạo mọi điều kiện để nhóm hoàn thành đề tài này.
Trân trọng cảm ơn!
PHẦN I. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại văn minh như hiện nay, hầu hết các thiết bị gia dụng đều cần
phải sử dụng điện. Điện đóng một vai trò to lớn trong việc phát triển sản xuất, kinh
tế, văn hóa…của đất nước. Nhưng thật đáng tiếc tại một số bản làng quê hương em lại
không có điện lưới Quốc gia. Điều này giúp em một phần giải thích được tại sao bà
con nông dân ở đây vẫn nghèo, vẫn vất vả. Em thiết nghĩ do không có điện nên mọi
hướng dẫn bằng hình ảnh để làm giàu thông qua các chương trình ti vi và các thông
tin đại chúng khác đều khó có thể đến được với những người dân nghèo nơi đây. Bên
cạnh đó, các chủ trương, chính sách, văn hóa đời sống pháp luật của Nhà nước cũng
chậm đến được với bà con. Mọi thông tin đến được với nhân dân đều thông qua các
văn bản do lãnh đạo thôn bản triển khai nên đôi khi gây ra nhàm chán ít có giá trị
tuyên truyền. Trong khu vực bản em sinh sống, một số gia đình có điều kiện đã dùng
máy phát điện sử dụng nguồn nước. Tuy nhiên, loại máy phát điện này công suất rất
nhỏ, chỉ sử dụng được đối với những gia đình gần nguồn nước. Trong quá trình sử
dụng máy phát điện loại này thường gặp một số sự cố như kẹt rác, lũ lụt, thiếu nước,
đứt dây…máy đều không hoạt động được. Quá trình sử dụng điện luôn phải có thiết bị
hoạt động dẫn đến sự lãng phí điện và giảm thời gian sử dụng của các thiết bị điện.
Ngoài ra, chi phí sử dụng điện bằng máy phát điện lại cao nên không phù hợp với thu
nhập của đại bộ phận người dân nghèo.
Xuất phát từ thực tiễn và những lý do trên đã thôi thúc em nghĩ ra ý tưởng chế
tạo ra máy phát điện giá rẻ cho những người dân nghèo vùng núi có điều kiện đặc
biệt khó khăn và khắc phục được những nhược điểm của máy phát điện thông
thường.
II. Mục đích nghiên cứu của đề tài
– Chế tạo ra máy phát điện chi phí thấp vừa có khả năng phát điện vừa có khả

năng tích điện, không bắt các thiết bị phải sử dụng điện liên tục khi không cần thiết
nên có thể làm tăng tuổi thọ cho các thiết bị.
– Có thể sử dụng máy phát điện ở nhiều địa hình khác nhau.
– Nâng công suất phát điện so với các máy phát điện hiện hành.
– Tránh được sự cố do mắc rác, không bị chập cháy do nước tràn vào máy khi
có mưa lũ nước dâng cao.
III. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Sự thành công của đề tài sẽ có một ý nghĩa to lớn trong việc tạo ra nguồn điện
cho những người dân nghèo vùng núi đặc biệt khó khăn quê hương em. Máy phát
điện giá rẻ của chúng em hộ gia đình nào cũng có thể đầu tư được. Bên cạnh ưu thế
về chi phí, máy phát điện này còn có những tính năng ưu việt vượt trội so với các
máy phát điện thông thường như vừa phát điện, vừa có khả năng tích điện, trong quá
trình hoạt động tránh mắc rác vào thân máy và quận dây do hệ thống thân máy được
đưa lên cao. Tăng suất điện động nhờ hệ thống puli truyền lực.

Nếu được đầu tư nghiên cứu để hoàn thiện đề tài chúng em nghĩ rằng mình đã
đóng góp một phần rất nhỏ đối với sự phát triển, kinh tế, chính trị, văn hóa ở địa
phương.
IV. Đối tượng nghiên cứu
– Một số tính năng mới của máy phát điện giá rẻ: Tăng tốc độ quay của từ
trường nhằm tăng công suất điện; Khả năng tránh lũ và tránh rác cao hơn so với máy
phát điện thông thường.
– Khả năng ứng dụng của máy phát điện giá rẻ ở một số địa hình của vùng núi
tại xã Bảo Hà – huyện Bảo Yên – tỉnh Lào Cai.
V. Phương pháp nghiên cứu
1. Nhóm phương pháp lý luận
Nghiên cứu các lý thuyết về từ thông, hiện tượng cảm ứng điện từ.
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nghiên cứu cấu tạo của máy phát điện, khảo sát các nguồn nước tại địa

phương, thử nghiệm lắp đặt máy phát điện tại các địa điểm khác nhau.
VI. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8/2011 đến 01/2013.
PHẦN HAI. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí thuyết
1. Từ thông
Từ thông gửi qua một diện tích đặt vuông góc với đường sức từ được xác định
bằng công thức: Φ=BScosα
Với: + Φ Từ thông (Wb)
+ B : cảm ứng từ (T)
2
+ S : diện
tích
vòng
dây
(m
)
 
+ α =( B, n )
2. Hiện tượng cảm ứng điện từ
– Hiện tượng cảm ứng điện từ: Khi từ thông gửi qua một mạch kín biến thiên
theo thời gian trong mạch xuất hiện suất điện động cảm ứng.
– Định luật cảm ứng điện từ ( Định luật Faraday): Độ lớn của suất điện động cảm
ứng xuất hiện trong mạch kín tỉ lệ với tốc độ biến thiên từ thông qua mạch kín đó.
Suất điện động cảm ứng: eC = –


t

3. Nguyên tắc tạo ra dòng điện xoay chiều
– Xét một cuộn dây dẫn dẹt hình tròn, khép kín, quay quanh trục cố định đồng

phẳng với cuộn dây đặt trong từ trường đều B có phương  với trục quay.
Giả sử lúc t = 0,  = 0
– Lúc t > 0   = t, từ thông qua cuộn dây:  = NBScos = NBScost
Với N là số vòng dây, S là diện tích mỗi vòng.
–  biến thiên theo thời gian t nên trong cuộn dây xuất hiện suất điện động cảm
ứng: e  

d
 NBS sint
dt

– Suất điện động này biến thiên điều hòa theo thời gian.
– Suất điện động của máy tỉ lệ với tốc độ quay.
4. Máy phát điện xoay chiều một pha hoạt động dựa vào hiện tượng cảm
ứng điện từ để tạo ra dòng điện xoay chiều
Cấu tạo:
– Phần cảm (roto) tạo ra từ thông biến thiên bằng các nam châm quay.

N
S

S

– Phần ứng (stato) gồm các cuộn dây giống nhau, cố định trên một vòng tròn.

B2
B1

B3

+ Từ thông qua mỗi cuộn dây biến thiên tuần hoàn với tần số: f  np
trong đó: n tốc độ quay của roto (vòng/s); p: số cặp cực.
II. Ứng dụng chế tạo máy phát điện cải tiến
1. Mô tả chung
Cấu tạo dựa trên nguyên tắc hoạt động của máy phát điện xoay chiều một pha
nhằm biến cơ năng của nước thành điện năng gồm:
– Guồng nước có tác dụng chuyển cơ năng của nước thành chuyển động quay
của Pu Li to.
– Đai truyền: Truyền chuyển động quay của Pu Li to đến Pu Li nhỏ với tốc độ
quay lớn hơn.
– Pu Li nhỏ gắn với phần cảm tạo ra từ trường quay.
– Phần ứng gồm các cuộn dây nhận từ thông biến thiên và tạo ra từ trường
quay. Làm từ thông qua các cuộn dây biến thiên xuất hiện một suất điện động cảm
ứng. Nối với mạch ngoài tạo thành dòng điện.
– Dòng điện được cho qua đi ốt nắn dòng bằng đi ốt hình cầu sau đó qua tụ để
dòng được ổn định hơn.
– Bộ đổi cực để chuyển chế độ dùng trực tiếp và chế độ tích điện.

(Hình ảnh của máy phát điện cải tiến)
2. Những cải tiến mới nhằm khắc phục hạn chế của máy phát điện cũ
– Thông thường các máy phát điện nước chia thành hai dạng máy đứng và máy
ngồi. Tuy nhiên tất cả các máy này đều có cánh quạt tiếp xúc với nước và cuộn dây
rất gần nước dẫn đến : Dễ bị nước vào máy dẫn đến chập cháy, khi có nước lón phải
lập tức nhấc máy vào nơi an toàn và sẽ không thể phát điện được.

(máy cũ thường xuyên mắc rác, phải tháo để vệ sinh)

(Hệ thống thân máy quá gần nguồn nước dễ bị chập cháy khi có lũ)
– Đối với ý tưởng của em sẽ dùng Pu Li và đai truyền nhằm hai mục đích: Tăng
tốc độ của máy phát điện và đưa được cuộn dây ra xa nguồn nước vì vậy trong điều
kiện nước không to lắm không nhất thiết phải chuyển máy đi và vẫn phát điện bình
thường. Ngoài ra còn tránh được rác mắc vào thân máy cũng như cuộn dây.

(Toàn bộ hệ thống được đưa lên cao nhờ puli truyền lực)
– Trong bộ phát điện chúng em dùng thêm cầu dao đổi cực để chuyển chế độ:
Một cực dùng điện bình thường. Cực còn lại sử dụng khi không sử dụng điện vào
mục đích gì sẽ chuyển sang chế độ tích điện phục vụ cho những lúc mưa lũ quá lớn
máy phát điện không hoạt động được. Đồng thời không bắt các thiết bị điện khác phải
hoạt động khi không cần thiết.
III. Thử nghiệm máy phát điện cải tiến
Đế đánh giá kết quả của máy phát điện cho đồng bào các dân tộc các vùng núi
khó khăn. Nhóm nghiên cứ chúng em đã lắp thử nghiệm tại nhiều địa điểm khác nhau
tại bản Lúc – xã Bảo Hà – huyện Bảo Yên – tỉnh Lào Cai. Theo dõi hoạt động máy
phát điện trong một thời gian dài tại nhà bạn Bùi Văn Trí lớp 12A6 từ 23 tháng 6
năm 2012 đến ngày 05/01/2013 và so sánh với các máy phát điện của người dân cùng
bản về ba chỉ số: Lượng điện, tuổi thọ của các thiết bị điện, giải quyết sự cố khi có lũ.
Kết quả thu được như sau:
1. Lượng điện
Đối với các máy phát điện thông thường của các gia đình khác lượng điện
thường không ổn định, cường độ dòng điện yếu. Khi xem ti vi thì không thể nấu cơm,
điện sáng yếu, không thể dùng quạt hoặc quay rất yếu nguyên nhân là do tốc độ quay
của từ trường chậm, dòng điện nhỏ.
Với máy phát điện tại nhà bạn Bùi Văn Trí cường độ dòng điện luôn ổn định
có thể vừa thắp sáng, vừa nấu cơm, vừa quạt đồng thời sử dụng các thiết bị để sửa
chữa xe máy.
2. Tuổi thọ các thiết bị điện
Các thiết bị điện sử dụng các thiết bị khác hỏng rất nhanh đặc biệt là bóng điện

dùng để tiêu thụ điện dư. Bóng này chỉ 2 tháng là phải thay một bóng. Các quạt
thường xuyên phải thay tụ khởi động do điện quá yếu, tụ khởi động phải làm việc quá
khả năng.

Đối với máy phát điện mới thì nhóm nghiên cứu chúng em không cần phải
dùng bóng tiêu thụ điện dư. Khi không dùng điện em sẽ chuyển sang chế độ tích điện
để dùng khi cần thiết. Các quạt hoạt động bình thường. Ngoài ra giá thành để làm
máy phát điện cũng không cao phù hợp với thu nhập đồng bào miên núi
3. Giải quyết sự cố khi có lũ
Chỉ cần một trận mưa to nước suối về rất nhanh và mạnh các máy phát điện
phải lập tức chuyển lên cao. Nếu không sẽ bị chập cháy, cuốn trôi nếu không phát
được điện, vào buổi tối sẽ rất nguy hiểm nếu thực hiện việc tháo lắp máy để di
chuyển. Cụ thể trong tháng 6 âm lịch có 7 lần mưa các nhà gần khu vực đều phải thực
hiện công việc này.
Đối với máy phát điện mới của nhóm nghiên cứu thử nghiệm tại nhà bạn Trí
việc chuyển vị trí máy hầu như không phải thực hiện. Bởi máy phát điện qua bu li
chuyền lực đã được nâng lên ở vị trí cao hơn rất nhiều vì vậy có thể tránh được lũ
bình thường. Đối với lũ to hoàn toàn có thể cất máy đến nơi an toàn nhưng vẫn có
thể dùng điện ở mức tối thiểu do đã có bộ tích sử dụng tích điện trước đó.

(Nam và Trí bên máy máy phát điện cải tiến)
PHẦN BA. KẾT LUẬN
I. Một số kết luận
Sau một thời gian tìm tòi nghiên cứu và thử nghiệm nhóm nghiên cứu chúng
em đã chế tạo ra máy phát điện cải tiến có nhiều ưu việt so với máy phát điện thông
thường như giá rẻ, dễ sử dụng, suất điện động lớn, ổn định có thể sử nhiều thiết bị
điện cùng một lúc, tuổi thọ của các thiết bị cao hơn so với các máy phát điện thông
thường.
Ngoài ra, đặc tính ưu việt hơn hẳn so với máy phát điện thông thường là máy

phát điện cải tiến của chúng em có khả năng vừa phát điện vừa tích điện nên khi có
sự cố máy không phát điện có thể vẫn sử dụng điện do máy có bộ phận tích điện.
II. Kiến nghị

Trong một thời gian nghiên cứu ngắn, kinh phí nghiên cứu hạn hẹp, phải đi lắp
đặt thử nghiệm ở nhiều địa điểm nên máy phát điện của chúng em không tránh khỏi
những sai xót kỹ thuật. Để ý tưởng biến thành hiện thực nhóm nghiên cứu chúng em
đề nghị:
– Chính quyền địa phương xã Bảo Hà hỗ trợ kinh phí mua sắm thiết bị kỹ thuật,
hỗ trợ vận chuyển, lắp đặt để chúng em có thể lắp đặt máy phát điện cho một số hộ
gia đình ở vùng sâu, vùng xa, các hộ gia đình có kinh tế khó khăn.
– Đề nghị các thầy cô trong Ban lãnh đạo trường THPT số 2 Bảo Yên hàng
năm tổ chức các cuộc thi sáng tạo để chúng em có điều kiện cống hiến những ý tưởng
của mình, cho chúng em những sân chơi bổ ích, lành mạnh, phát huy hết được khả
năng của mình.
2.2.2 Qui trình thực hiện dự án kĩ thuật (Engineering Project) (Sáng chế)
Dưới đây là qui trình thực hiện dự án kĩ thuật đã được sơ đồ hoá.

Hình 2.2: Quy trình thực hiện dự án kỹ thuật
a. Xác định vấn đề (Define the Problem):
Dự án kỹ thuật cũng luôn được bắt đầu bằng một câu hỏi về vấn đề mà người
nghiên cứu quan sát được. Ví dụ như: Vấn đề ở đây là gì, Điều gì là cần thiết, Ai cần
gì, Tại sao cần phải giải quyết, Có cách nào tốt hơn không, Cải tiến nó như thế
nào…Trên cơ sở đó, đề xuất việc nghiên cứu tìm ra một qui trình, giải pháp kĩ thuật
tối ưu hay chế tạo, cải tiến một sản phẩm kỹ thuật nào đó.
Ví dụ: Tại các công sở, một hệ thống chiếu sáng thường được điều khiển đóng,
cắt bằng tay. Điều này cần nhân lực và phụ thuộc vào chính nhân lực ấy, nó sẽ tốn
kinh phí, và việc đóng cắt có thể không chính xác do tính chủ quan của chính nhân
lực. Nếu thiết kế và chế tạo được một hệ thống chiếu sáng tự động đóng cắt theo

cường độ sáng của môi trường sẽ khắc phục được những nhược điểm trên cũng như
tiết kiệm điện năng.
b. Nghiên cứu tổng quan (Do Background Research):
Việc nghiên cứu tổng quan sẽ thừa hưởng kinh nghiệm của người khác, tránh
được các sai lầm khi nghiên cứu. Có hai vấn đề chính cần tìm hiểu và nghiên cứu
trong giai đoạn này là: ý kiến của người sử dụng (hay khách hàng) và các ưu nhược
điểm của các qui trình, giải pháp kĩ thuật hay thiết bị, sản phẩm đã có.

Ví dụ: Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu tại thư viện, Internet có thể rút ra một số
kết luận: Hệ thống chiếu sáng tự động đã được nghiên cứu, chế tạo và đưa vào sử
dụng ở các nước tiên tiến. Đó là các hệ thống công nghiệp có độ tin cậy cao nhưng
giá thành cũng rất cao và nhiều khi chưa phù hợp với điều kiện môi trường, khí hậu ở
Việt Nam. Để thực hiện được thao tác đóng ngắt tự động theo ánh sáng môi trường,
thiết bị thường có 4 khối cơ bản đó là: nhận thông tin, xử lý, giải điều chế, thiết bị
đầu cuối với nhiều phương án lựa chọn khác nhau về linh kiện, mạch điện và công
nghệ…
c. Xác định yêu cầu (Specify Requirements):
Nội dung của giai đoạn này là đề xuất những yêu cầu, tiêu chí thiết kế cần phải
đạt được. Một trong những cách xây dựng đề xuất tiêu chí là dựa vào sự phân tích các
qui trình, giải pháp hay các sản phẩm đang có. Yêu cầu, tiêu chí cần được xác định và
phát biểu rõ ràng.
Ví dụ: Hệ thống chiếu sáng tự động cần phải đảm bảo: Đóng, cắt đèn chiếu
sáng chính xác với cường độ sáng được thiết lập; Hoạt động tốt trong điều kiện
cường độ sáng cao, nhiệt độ, độ ẩm cao của khí hậu ở Việt Nam; Hoạt động ổn định
trong khoảng thời gian dài; Công suất cực đại là 500W; Nhỏ gọn và có chi phí thấp.
d. Đề xuất các giải pháp (Create Alternative Solutions):
Với yêu cầu và tiêu chí đã đặt ra, luôn luôn có nhiều giải pháp tốt để giải
quyết.
Nếu chỉ tập trung vào một giải pháp, rất có thể đã bỏ qua các giải pháp tốt hơn.

Do vậy, trong giai đoạn này, người nghiên cứu tìm cách đề xuất số lượng tối đa các
giải pháp có thể, bám sát với yêu cầu, tiêu chí đã nêu.
Ví dụ: Có nhiều phương án để thiết kế hệ thống:
– Phương án chọn cảm biến: quang trở, photo diode, photo transistor…
– Phương án chọn mạch xử lý: mạch so sánh, trigger…
– Phương án về mạch động lực: Rơ le, Triac…
Một trong các ví dụ khác là giải pháp khắc phục tật khúc xạ (cận, viễn, lão thị)
trong thực tế có nhiều như: đeo kính phù hợp (đeo cách mắt hay áp tròng), phẫu thuật
giác mạc (khi công nghệ laser phát triển) và sau này có thể là thay đổi chiết suất của
các bộ phận cho ánh sáng truyền qua thuộc thấu kính mắt (như thuỷ dịch,thể thuỷ
tinh,dịch thuỷ tinh ..v..v..)
e. Lựa chọn giải pháp (Choose the Best Solution):
Trên cơ sở các giải pháp đã đề xuất ở bước d, cần xem xét và đánh giá một
cách toàn diện về mức độ phù hợp với yêu cầu, tiêu chí đã đặt ra cho sản phẩm ở
bước c.
Trên cơ sở đó, lựa chọn giải pháp tốt nhất và phù hợp nhất với yêu cầu đặt ra.
Việc lựa chọn giải pháp cũng cần căn cứ vào bối cảnh về điều kiện kinh tế, công
nghệ, trang thiết bị và nhân lực thực hiện dự án kỹ thuật.
Ví dụ: Giải pháp của hệ thống được lựa chọn căn cứ vào điều kiện thực tế về
không gian, địa hình, công suất chiếu sáng…của tòa nhà và mức độ đáp ứng yêu cầu
và tiêu chí. Với một nơi có không gian thoáng, chịu ảnh hưởng trực tiếp của ánh sáng
mặt trời; địa hình hẹp, tập trung, công suất chiếu sáng nhỏ. Do vậy giải pháp dùng
cảm biến quang trở với mạch động lực dùng Triac là phù hợp hơn cả.
Giải pháp được lựa chọn để khắc phục tật khúc xạ tuỳ thuộc trước hết vào hiệu
quả đem lại, song còn vào điều kiện kinh tế và sở thích của từng người. Có người

chọn giải pháp đeo kính cách mắt, có người sử dụng kính áp tròng và cũng có người
chọn giải pháp phẫu thuật giác mạc.
f. Hoà thiện giải pháp (Develop the Solution):

Mặc dù đã được chọn, giải pháp thực hiện cũng cần xem xét lại để cải tiến,
hoàn thiện. Đây là một việc quan trọng và cần được xem xét thường xuyên. Ngay cả
khi hoàn thiện và đưa tới khách hàng vẫn có thể nghĩ tới việc hoàn thiện nó trong
những nghiên cứu tiếp theo. Trong bước này, cần tự đặt và trả lời các câu hỏi dạng
như: ưu điểm lớn nhất của giải pháp là gì, hạn chế còn tồn tại của giải pháp là gì, có
cách nào khắc phục hạn chế đó…
Ví dụ: Hệ thống sau khi được thiết kế cần được thử nghiệm, mô phỏng trên
máy tính. Đo đạc các thông số đầu vào như cường độ sáng, thời gian trễ… Kiểm tra
đầu ra như khả năng chịu tải, gây nhiễu… Từ đó, điều chỉnh tối ưu hóa các thông số
của mạch.
g. Xây dựng mẫu (Build a Prototype):
Mẫu sản phẩm được xem như là phiên bản “hoạt động” dựa trên giải pháp.
Thường thì nó được chế tạo bởi các vật liệu không giống với sản phẩm cuối
cùng, và lẽ đương nhiên, chưa cần quan tâm tới tính mỹ thuật của sản phẩm. Mẫu này
sẽ được xem xét, đánh giá, kiểm tra có đáp ứng các yêu cầu, tiêu chí đã đặt ra cho sản
phẩm hay chưa.
Ví dụ: Tiến hành lắp ráp mạch, cho mạch hoạt động thử tại hiện trường. Tiến
hành khảo sát đo đạc các thông số thực của mạch. Có những thay đổi, điều chỉnh cho
phù hợ với điều kiện thực tế.
h. Đánh giá và hoàn thiện thiết kế (Test and Redesign):
Quá trình hoàn thiện thiết kế liên quan tới các hoạt động có tính lặp lại hướng
tới việc có một sản phẩm tốt nhất. Một trong số đó là: Đánh giá giải pháp – tìm kiếm
lỗi và thay đổi – Đánh giá giải pháp mới – tìm kiếm lỗi mới và thay đổi…., trước khi
kết luận về bản thiết kế cuối cùng.
Ví dụ: Hệ thống được thử nghiệm và theo dõi trong một thời gian. Ghi nhận
những lỗi phát sinh, nếu lỗi có thể khắc phục được thì có thể hoàn thiện mạch để sản
xuất. Nếu lỗi phát sinh nhiều, khó hoặc không khắc phục thì phải thiết kế lại mạch.
2.3. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Phương pháp NCKH là hệ thống các thao tác có tính qui trình lên đối tượng
nghiên cứu và liên quan đến đối tượng nghiên cứu mà nhà nghiên cứu thực hiện để

đạt đến mục đích nghiên cứu. Trong NCKH, phương pháp góp phần quyết định
thành công của mọi quá trình nghiên cứu.
Đối tượng NCKH ở các lĩnh vực khoa học khác nhau có những đặc điểm khác
nhau nên có nhiều phương pháp NCKH khác nhau. Việc phân loại chúng thành hệ
thống các nhóm thường dựa vào các đặc điểm như: phạm vi sử dụng, lý thuyết thông
tin về quy trình nghiên cứu một để tài khoa học, trình độ nhận thức khoa học chung
của loài người.
Trong thực tế, tùy theo mục đích và đặc điểm chuyên ngành người ta sử dụng
phối hợp nhiều phương pháp để hỗ trợ và kiểm tra lẫn nhau nhằm khẳng định các kết
quả nghiên cứu. Mỗi một lĩnh vực khoa học có một số các phương pháp đặc trưng.
Trong một đề tài/dự án, người ta có thể sử dụng một hệ thống nhiều phương
pháp phối hợp.
Dưới đây trình bày nhóm các phương pháp NCKH chung nhất mà những người
nghiên cứu thường sử dụng.

Các phương pháp NCKH chung nhất là một hệ thống các phương pháp, được chia
thành hai nhóm: Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết (Theoretical Method) và
nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn (còn gọi là phương pháp kinh nghiệm, thực
nghiệm- Empirical Method). Gần đây, do toán học phát triển và có vai trò hết sức
quan trọng trong NCKH nên một nhóm phương pháp mới: nhóm phương pháp Toán
học được bổ sung vào hệ thống này.
2.3.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết là nhóm các phương pháp thu thập thông tin
khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu đã có và bằng các thao tác tư duy
logic để rút ra các kết luận khoa học cần thiết.
Nhóm phương pháp lý thuyết gồm các phương pháp cụ thể sau đây:
a. Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết.
– Phương pháp phân tích lý thuyết là phương pháp nghiên cứu các văn bản, tài
liệu lý luận khác nhau về một chủ thể bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận,

từng mặt theo lịch sử thời gian, để hiểu chúng một cách đầy đủ toàn diện. Phân tích
lý thuyết còn nhằm phát hiện ra những xu hướng, những trường phái nghiên cứu của
từng tác giả và từ đó chọn lọc những thông tin quan trọng phục vụ cho đề tài nghiên
cứu của mình.
– Phương pháp tổng hợp lý thuyết là những phương pháp liên kết từng mặt,
từng bộ phận thông tin từ các lý thuyết đã thu thập được để được tạo ra một hệ thống
lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về chủ đề nghiên cứu. Tổng hợp lý thuyết được thực
hiện khi ta đã thu thập được nhiều tài liệu phong phú về một đối tượng. Tổng hợp cho
chúng ta tài liệu toàn diện và khái quát hơn các tài liệu đã có.
– Phân tích và tổng hợp lí thuyết là hai phương pháp có chiều hướng đối lập
nhau song chúng lại thống nhất biện chứng với nhau. Phân tích chuẩn bị cho tổng hợp
và tổng hợp lại giúp cho phân tích càng sâu sắc hơn.
Nghiên cứu lý thuyết thường bắt đầu từ phân tích các tài liệu đã tìm ra cấu trúc
các lý thuyết, các trường phái, các xu hướng phát triền của lý thuyết. Từ phân tích
người ta lại tổng hợp chúng lại để xây dựng thành một hệ thống khái niệm, phạm trù,
tiến tới tạo thành các lý thuyết khoa học mới.
b. Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lý thuyết
– Phân loại là phương pháp sắp xếp các tài liệu khoa học thành một hệ thống
logic chặt chẽ theo từng mặt, từng đơn vị kiến thức, từng vấn đề khoa học có cùng
dấu hiệu bản chất, cùng một hướng phát triển.
Phân loại làm cho khoa học từ chỗ có cấu trúc phức tạp trong nội dung thành
cái dễ nhận thấy, dễ sử dụng theo mục đích nghiên cứu của các đề tài. Phân loại còn
giúp phát hiện cấu trúc của hệ thống, các quy luật phát triền của hệ thống, cũng như
sự phát triển của hệ thống, để từ đó mà dự đoán được các xu hướng phát triền của hệ
thống.
– Phương pháp hệ thống hóa là phương pháp sắp xếp tri thức khoa học thành hệ
thống trên cơ sở một mô hình lý thuyết làm cho sự hiểu biết của ta về đối tượng được
đầy đủ và sâu sắc.
Hệ thống hóa là phương pháp tuân theo quan điểm hệ thống – cấu trúc trong
nghiên cứu khoa học. Những thông tin đa dạng thu thập từ các nguồn, các tài liệu

khác nhau, nhờ phương pháp hệ thống hóa mà ta có được một chính thể với một kết
cấu chặt chẽ để từ đó mà ta xây dựng một lý thuyết mới hoàn chỉnh.

Phân loại và hệ thống hóa là hai phương pháp đi liền với nhau, trong phân loại
đã có yếu tố hệ thống hóa, hệ thống hóa phải dựa trên cơ sở của phân loại và hệ thống
hóa làm cho phân loại được đầy đủ và chính xác hơn. Phân loại và hệ thống hóa là
hai bước để tạo ra những kiến thức mới sâu sắc và toàn diện.
c. Mô hình hóa (Phương pháp mô hình)
Mô hình hóa là một phương pháp khoa học để nghiên cứu các đối tượng, các
quá trình … bằng cách xây dựng các mô hình của chúng (các mô hình này bảo toàn
các tính chất cơ bản được trích ra của đối tượng đang nghiên cứu) và dựa trên mô
hình đó để nghiên cứu trở lại đối tượng thực.
Mô hình là một hệ thống các yếu tố vật chất hoặc ý niệm (tư duy) để biểu diễn,
phản ánh hoặc tái tạo đối tượng cần nghiên cứu, nó đóng vai trò đại diện, thay thế đối
tượng thực sao cho việc nghiên cứu mô hình cho ta những thông tin mới mà các
thông tin này có thể chuyển tải, áp dụng cho đối tượng thực.
Mô hình có những tính chất sau:
– Tính tương tự: có sự tương tự giữa mô hình và vật gốc, chúng có những đặc
điểm cơ bản có thể so sánh với nhau được như: cấu trúc (đẳng cấu), chức năng,
thuộc tính, cơ chế vận hành…. Song sự tương tự giữa mô hình và đối tượng thực (vật
gốc) chỉ là tương đối.
– Tính đơn giản: mô hình chỉ phán ánh một hoặc một số mặt nào đó của đối
tượng gốc.
– Tính trực quan: mô hình là sự tái hiện đối tượng nghiên cứu dưới dạng trực
quan.
– Tính lý tưởng: khi mô hình hóa đối tượng gốc, ta đã khái quát hóa, trừu tượng
hóa, phản ánh đặc tính của đối tượng gốc ở mức độ hoàn thiện hơn (lý tưởng).
– Tính quy luật riêng: mô hình có những tính chất riêng được quy định bởi các
phần tử tạo nên nó. Ví dụ mô hình tế bào được làm bởi chất liệu khác với tế bào thực;

mô hình trường học tiên tiến có nét riêng bởi các thành tố của trường đó (đội ngũ, cơ
sở vật chất, môi trường giáo dục, quản lý …).
Việc phân loại mô hình có nhiều cách, dựa vào những dấu hiệu khác nhau như:
– Dựa vào dấu hiệu vật chất và tinh thần, có 2 loại:
+ Mô hình vật chất gồm: mô hình hình học, mô hình vật lý, mô hình vật chất toán học.
+ Mô hình tinh thần (tư duy) gồm: mô hình biểu tượng (mô hình trí tuệ) mô
hình logic – toán (mô hình công thức, ký hiệu…).
– Dựa vào loại hình mô hình có các loại: mô hình lý thuyết, mô hình thực
nghiệm…
– Dựa vào nội dung phản ánh, có hai loại: mô hình cấu trúc, mô hình chức
năng.
– Dựa vào tính chất của mô hình, có rất nhiều loại.
Trong thực tế nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học khác nhau, tùy theo đối
tượng nghiên cứu, người nghiên cứu có thể lựa chọn các mô khác nhau.
Mô hình toán: là mô hình được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực nghiên
cứu khoa học hiện đại. Người nghiên cứu dùng các loại ngôn ngữ toán học. Cơ sở
logic của phương pháp mô hình là phép loại suy.
Phương pháp mô hình cho phép tiến hành nghiên cứu trên những mô hình (vật
chất hay ý niệm (tư duy)) do người nghiên cứu tạo ra (lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn
đối tượng thực) để thay thế việc nghiên cứu đối tượng thực. Điều này thường xảy ra

khi ngườinghiên cứu không thể hoặc rất khó nghiên cứu đối tượng thực trong điều
kiện thực tế. Phương pháp mô hình xem xét đối tượng nghiên cứu như một hệ thống
(tổng thể), song tách ra từ hệ thống (đối tượng) các mối quan hệ, liên hệ có tính quy
luật có trong thực tế nghiên cứu, phản ánh được các mối quan hệ, liên hệ đó của các
yếu tố cấu thành hệ thống – đó là sự trừu tượng hóa hệ thống thực.
Dùng phương pháp mô hình giúp người nghiên cứu dự báo, dự đoán, đánh giá
các tác động của các biện pháp điều khiển, quản lý hệ thống. Ví dụ: sử dụng phương
pháp phân tích cấu trúc (đặc biệt là cấu trúc không gian, các bộ phận hợp thành có

bản chất vật lý giống hệt đối tượng gốc) để phản ánh, suy ra cấu trúc của đối tượng
gốc như: mô hình động cơ đốt trong, mô hình tế bào, sa bàn….
d. Phương pháp giả thuyết
Phương pháp giả thuyết là phương pháp nghiên cứu đối tượng, trong đó đưa ra
dự đoán bản chất của đối tượng và tìm cách kiểm chứng dự đoán đó. Như vậy
phương pháp giả thuyết có hai chức năng: chức năng dự đoán và chức năng chỉ
đường, trên cơ sở dự đoán mà tìm bản chất của sự kiện. Với hai chức năng đó giả
thuyết đóng vai trò là một phương pháp nhận thức.
Trong NCKH khi phát hiện ra các hiện tượng, quá trình mới mà với kiến thức
đã có, không thể giải thích được, người ta thường dựa vào kiến thức và kinh nghiệm
đã biết, và với trí tưởng tượng, trực giác mà đưa ra giả thuyết để giải thích hiện tượng
mới đó. Đó chính là con đường xây dựng giả thuyết.
Trong giả thuyết, dự đoán được lập luận theo lối giả định- suy diễn, có tính xác
suất, cho nên cần phải chứng minh. Chứng minh giả thuyết được thực hiện bằng hai
cách: chứng minh trực tiếp và chứng minh gián tiếp. Chứng minh trực tiếp là phép
chứng minh dựa vào các luận chứng chân thực và bằng các quy tắc suy luận để rút ra
luận đề. Chứng minh gián tiếp là phép chứng minh khẳng định rằng phản luận đề là
gian dối và từ đó rút ra luận đề chân thực.
Với tư cách là phương pháp biện luận, giả thuyết được sử dụng như là một thí
nghiệm của tư duy, thử nghiệm thiết kế các hành động lý thuyết. Suy diễn để rút ra
các kết luận chân thực từ giả thuyết là thao tác logic quan trọng của quá trình NCKH.
Phương pháp giả thuyết nêu trên thường được sử dụng trong toán học. Cũng
cần chú ý rằng, giả thuyết được nói đến trong phương pháp khoa học (scientific
method) chỉ có thể được kiểm chứng (chứ không phải chứng minh) bằng con đường
thực nghiệm (chứ không thể bằng con đường suy luận lôgic như trên).
e. Phương pháp lịch sử
Phương pháp lịch sử là phương pháp nghiên cứu bằng con đường đi tìm nguồn
gốc phát sinh, quá trình phát triền và biến hóa của đối tượng, để phát hiện bản chất và
quy luật của đối tượng.
Mọi sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội đều có lịch sử hình thành và

phát triển, tức là có nguồn gốc phát sinh, có vận động phát triền và tiêu vong. Quy
trình phát triền lịch sử biểu hiện toàn bộ tính cụ thể của nó, với mọi sự thay đổi,
những bước quanh co, những cái ngẫu nhiên, những cái tất yếu, phức tạp, muôn hình,
muôn vẻ, trong các hoàn cảnh khác nhau và theo một trật tự thời gian nhất định. Lần
theo dấu vết của lịch sử chúng ta sẽ có bức tranh trung thực về bản thân đối tượng
nghiên cứu.
2.3.1 Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn là nhóm các phương pháp trực
tiếp tác động vào đối tượng có trong thực tiễn để làm bộc lộ bản chất và các quy luật
vận động của các đối tượng ấy. Nhóm này có các phương pháp cụ thể sau đây:
a. Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp tri giác có mục đích, có kế hoạch một sự kiện,
hiệntượng, quá trình (hay hành vi cử chỉ của con người) trong những hoàn cảnh tự
nhiên khác nhau nhằm thu thập những số liệu, sự kiện cụ thể đặc trưng cho quátrình
diễn biến của sự kiện, hiện tượng đó.
Quan sát khoa học được tiến hành trong thời gian dài hay ngắn, không gian
rộng hay hẹp, đối tượng nhiều hay ít tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu của các đề
tài. Các tài liệu quan sát qua xử lý đặc biệt cho ta những kết luận đầy đủ, chính xác về
đối tượng.
Có hai loại quan sát khoa học: quan sát trực tiếp và quan sát gián tiếp.
– Quan sát trực tiếp là quan sát trực diện đối tượng đang diễn biến trong thực tế
bằng mắt thường hay bằng các phương tiện kĩ thuật như: máy quan trắc, kính thiên
văn, kính hiển vi… để thu thập thông tin một cách trực tiếp.
– Quan sát gián tiếp là quan sát diễn biến hiệu quả của các tác động tương tác
giữa đối tượng cần quan sát với các đối tượng khác, mà bản thân đối tượng nghiên
cứu không thể quan sát trực tiếp được, ví dụ: khi nghiên cứu các hạt cấu tạo nên
nguyên tử, cần tiến hành các quan sát gián tiếp.
Quan sát khoa học có ba chức năng:

– Chức năng thu thập thông tin thực tiễn, đây là chức năng quan trọng nhất.
Các thông tin này qua xử lý cho ra những hiểu biết có giá trị về đối tượng.
– Chức năng kiểm chứng các giả thuyết hay các lý thuyết đã có. Trong nghiên
cứu khoa học khi cần xác minh tính đúng đắn của các lý thuyết hay giả thuyết nào đó,
các nhà khoa học cần phải thu thập các tư liệu từ thực tiễn để kiểm chứng. Qua thực
tiễn kiểm nghiệm mới khẳng định được độ tin cậy của lý thuyết.
– Chức năng đối chiếu các kết quả nghiên cứu lý thuyết với thực tiễn để tìm ra
sự sai lệch của chúng, mà tìm cách bổ khuyết, hoàn thiện lý thuyết.
Quá trình quan sát được tiến hành như sau:
– Xác định đối tượng quan sát trên cơ sở mục đích của đề tài đồng thời xác
định cả các phương diện cụ thể của đối tượng cần phải quan sát.
– Lập kế hoạch quan sát: thời gian, địa điểm, số lượng đối tượng, người quan
sát, phương diện cụ thể của đối tượng cần phải quan sát.
– Lựa chọn phương thức quan sát: quan sát trực tiếp, quan sát gián tiếp, quan
sát bằng mắt thường hay bằng các phương tiện kĩ thuật, quan sát một lần hay nhiều
lần, số người quan sát, địa điểm, thời điểm và khoảng cách thời gian cho mỗi lần
quan sát…
– Tiến hành quan sát đối tượng hết sức thận trọng, phải theo dõi từng diễn biến
dù là nhỏ nhất kể cả ảnh hưởng của những tác động khác từ bên ngoài tới đối tượng.
– Xử lý tài liệu: Các tài liệu do các cá nhân quan sát được là tài liệu cảm tính,
mang tính chủ quan, chưa phải là tài liệu khoa học. Các tài liệu này cần phải được xử
lý thận trọng bằng cách phân loại, hệ thống hóa, bằng thống kê toán học, bằng máy
tính mới đáng tin cậy, các tài liệu qua xử lý cho ta thông tin đúng đắn và khái quát về
đối tượng nghiên cứu.
– Để kiểm tra các kết quả quan sát khách quan, người ta thường sử dụng một
loại các biện pháp hỗ trợ khác như: trao đổi trực tiếp với nhân chứng, lặp lại quan sát

nhiều lần, quan sát lại bởi các người, nhóm nghiên cứu khác… Bất cứ một quan sát
nào cũng đều do con người thực hiện, cho nên phải tính đến các đặc điểm của quá

trình quan sát.
Để tránh những sai sót có thể xảy ra cần lưu ý một số điểm sau đây:
– Một là: Chủ thể quan sát là các nhà khoa học hay các cộng tác viên. Đã là con
người đều bị các quy luật tâm lý chi phối. Mỗi cá nhân đều có tính chủ quan. Chủ
quan ở trình độ kinh nghiệm, ở thế giới quan, ở cảm xúc. Quan sát bao giờ cũng
thông qua lăng kính chủ quan, có “cái tôi” trong sản phẩm. Ngay cả khi sử dụng máy
quay phim “vô tri” người cầm máy cũng vẫn quay theo góc độ mà họ muốn. Các chủ
quan có thể là nguồn gốc của mọi sự sai lệch.
– Hai là: Phải chú ý tới các quy luật của cảm giác, tri giác như quy luật lựa
chọn, quy luật thích ứng với các ảo giác.
– Ba là: Đối tượng quan sát là thế giới phức tạp. Sự chính xác của quan sát một
mặt do trình độ của con người, mặt khác do sự bộc lộ của chính đối tượng. Đối tượng
nằm trong một hệ thống có mối quan hệ phức tạp với đối tượng phức tạp khác, nó lại
luôn vận động, phát triền và biến đổi. Cho nên việc xác định đúng các chỉ số trọng
âm về đối tượng cần quan sát là điều rất quan trọng.
Tóm lại, quan sát là một phương pháp nghiên cứu khoa học quan trọng tuy
nhiên chúng chưa đạt tới trình độ nhận thức bản chất bên trong của đối tượng. Cần
phải sử dụng phối hợp quan sát với các phương pháp khác để đạt tới kết quả bản chất
và khách quan.
Quan sát đem lại cho người nghiên cứunhững tài liệu cụ thể, cảm tính trực
quan, song có ý nghĩa khoa học rất lớn, đem lại cho khoa học những giá trị thực sự.
Chẳng hạn như: Pavlôv nhờ có quan sát đã xây dựng được học thuyết “Phản
xạ có điều kiện”; Niutơn quan sát hiện tượng quả táo rơi, khái quát và xây dựng nên:
“Định luật vạn vật hấp dẫn”; Galilê quan sát dao động của chiếc đèn lồng trong nhà
thờ từ lúc bắt đầu đến lúc tắt, đã khái quát và nêu ra định luật chuyển động của con
lắc đơn với chu kỳ T xác định.
b) Phương pháp điều tra
Điều tra là phương pháp dùng những câu hỏi (hoặc bài toán) đồng loạt đặt ra
cho một số lớn người nhằm thu được số những ý kiến chủ quan của họ về một vấn đề
nào đó mà người nghiên cứu quan tâm.

Điều tra là phương pháp khảo sát một nhóm đối tượng trên một diện rộng
nhằm phát hiện các quy luật phân bố, trình độ phát triền, những đặc điểm về mặt định
tính và định hướng của các đối tượng cần nghiên cứu. Các tài liệu điều tra được sẽ là
những thông tin quan trọng về đối tượng, cần cho các quá trình nghiên cứu và là căn
cứ quan trọng để đề xuất những giải pháp khoa học hay giải pháp thực tiễn.
Có hai loại điều tra: điều tra cơ bản và điều tra xã hội học.
– Điều tra cơ bản là khảo sát sự có mặt của các đối tượng trên một diện rộng,
để nghiên cứu các quy luật phân bố cũng như các đặc điểm về mặt định tính và định
hướng. Ví dụ: Điều tra địa hình, địa chất, điều tra dân số, trình độ văn hóa, điều tra
chỉ số thông minh (IQ) của trẻ em, điều tra khả năng tiêu thụ hàng hóa…
– Điều tra xã hội là điều tra quan điểm, thái độ của quần chúng về một sự kiện
chính trị, xã hội, hiện tượng văn hóa, thị hiếu… Ví dụ: Điều tra nguyện vọng nghề
nghiệp của thanh niên, điều tra hay trưng cầu dân ý về bản hiến pháp mới…
Điều tra là một phương pháp nghiên cứu khoa học quan trọng, một hoạt động
có mục đích, có kế hoạch, được tiến hành một cách thận trọng.

c) Phương pháp thực nghiệm khoa học
Phương pháp thực nghiệm là phương pháp thu thập các sự kiện trong những
điều kiện được tạo ra một cách đặc biệt (nhằm khẳng định những mối liên hệ dự kiến
sẽ có trong những điều kiện mới) đảm bảo việc tích cực, chủ động tạo lại các hiện
tượng, quá trình cần nghiên cứu. Nói cách khác: là chủ động gây ra hiện tượng
nghiên cứu trong những điều kiện khống chế, nhờ đó có thể lặp lại nhiều lần, tách
bạch ra và thay đổi từng nhân tố tác động và đánh giá, đo đạc tỉ mỉ sự biến đổi của
hiệu quả theo sự thay đổiố tác động.
Phương pháp thực nghiệm khoa học là một trong các phương pháp cơ bản
trong nghiên cứu khoa học, song chỉ được sử dụng khi và chỉ khi đặt ra bài toán làm
sáng tỏ các mối liên hệ, sự phụ thuộc giữa các hiện tượng nghiên cứu và sự thể hiện
các giả định, kiểm định các giả thuyết.
Có 3 điều kiện để sử dụng phương pháp thực nghiệm khoa học:

– Biết được chính xác những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự nảy sinh và diễn
biến của các hiện tượng nghiên cứu.
– Xác định được những nguyên nhân của các hiện tượng do vạch ra được các
điều kiện ảnh hưởng.
– Lặp lại thí nghiệm nhiều lần tuỳ theo ý muốn và như vậy sẽ thu thập được
những tài liệu định lượng mà từ đó có thể phán đoán về tính điển hình hay ngẫu nhiên
của các hiện tượng nghiên cứu.
Tính chất đặc trưng của phương pháp thực nghiệm:
– Cho khả năng nghiên cứu các hiện tượng với việc xác định đúng đắn các tác
động quyết định để làm nhanh lên hoặc chậm lại các quá trình.
-Cho khả năng thực hiện độc lập với môi trường (thực nghiệm trong phòng thí
nghiệm).
– Việc bổ sung nội dung của đối tượng thực hiện bằng các thành phần mới để
làm thay đổi sự phát triển của đối tượng.
– Kiểm định các giả thuyết giả định đã nêu ra và có những kết luận về chúng.
– Giải thích các kết quả nhờ các công cụ và phương tiện đặc biệt.
Yêu cầu cơ bản của việc sử dụng phương pháp thực nghiệm:
– Không được cản trở hoặc đảo lộn tiến trình hoạt động bình thường của đối
tượng nghiên cứu.
– Chỉ được tiến hành thực nghiệm khi có đầy đủ luận cứ: mục đích; điều kiện
(cơ sở lý luận, giả thuyết khoa học, đối tượng, tác động, phương pháp nghiên cứu, địa
bàn thực nghiệm,lựclượng tham gia thực nghiệm v.v…); các bước thựcnghiệm; xử lý
kết quả; phân tích lý luận; khái quát hoá và hình thành tri thức mới…để tin tưởng
rằng việc đưa ra những cái mới đã được kiểm tra vào quá trình nghiên cứu chỉ có thể
góp phần nâng cao hiệu quả và thành công của công trình nghiên cứu, ít ra là không
gây hậu quả xấu.
Phương pháp thực nghiệm thường chia thành hai loại phương chính:
– Thực nghiệm tự nhiên.
– Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm.
Ngoài ra do mục đích và mức độ nghiên cứu người ta còn chia thành các loại

phương pháp thực nghiệm khác như:
– Thực nghiệm thăm dò.
– Thực nghiệm xét nghiệm.
– Thực nghiệm định tính.

– Thực nghiệm định lượng…
Thực nghiệm là phương pháp được coi là quan trọng nhất, trong nghiên cứu
khoa học hiện đại. Trong lịch sử nhiều thế kỷ thực nghiệm có vai trò hết sức quan
trọng trong nghiên cứu khoa học. Ngay từ khi xuất hiện, thực nghiệm đã có ý nghĩa
như là một cuộc cách mạng trong nghiên cứu khoa học và được sử dụng triệt để trong
nhiều lĩnh vực khoa học, đặc biệt là các khoa học tự nhiên. Thực nghiệm đã tạo ra
một phương pháp nghiên cứu mới, phương pháp hoàn toàn chủ động trong nghiên
cứu khoa học.
Ngày nay thực nghiệm đã được sử dụng cả trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học
xã hội, khoa học giáo dục và đem lại những kết quả quan trọng.
Phương pháp thực nghiệm có những đặc điểm sau đây:
– Thực nghiệm được tiến hành xuất phát từ một giả thuyết hay phỏng đoán về
sự diễn biến của đối tượng. Trong thực nghiệm, người ta chú ý đến một số biến số
quan trọng và bỏ một số biến số thứ yếu. Thực nghiệm được tiến hành để khẳng định
tính chân thực của phỏng đoán hay giả thuyết đã nêu. Thực nghiệm thành công sẽ
góp phần tạo nên một lý thuyết mới.
– Thực nghiệm được tiến hành có kế hoạch như là thực hiện một chương trình
khoa học cần hết sức chi tiết và chính xác. Kế hoạch thực nghiệm đòi hỏi phải miêu
tả hệ thống các biến số theo một chương trình. Trong một thực nghiệm, thường có 3
yếu tố biến đổi (gọi là biến) cần được xem xét trong tiến trình thực hiện. Trong đó,
biến do người nghiên cứu chủ động biến đổi được gọi là biến độc lập (independent
variable), biến thay đổi do sự biến đổi của biến độc lập gây ra và được nhà khoa học
đo đạc và ghi lại sự thay đổi đó gọi là biến phụ thuộc (dependent variable), biến cần
giữ ở trạng thái ổn định trong quá trình thực nghiệm được gọi là biến kiểm soát

(controlled variable).
Trong nghiên cứu khoa học xã hội hay khoa học giáo dục, với mục đích kiểm
tra giả thuyết, các đối tượng thực nghiệm được chia thành hai nhóm: nhóm thực
nghiệm và nhóm đối chứng (còn gọi là nhóm kiểm chứng). Hai nhóm này được lựa
chọn ngẫu nhiên, có số lượng và trình độ phát triền ngang nhau, điều đó được khẳng
định bằng việc kiểm tra chất lượng ban đầu. Nhóm thực nghiệm chịu tác động bằng
những biến số độc lập (nhân tố thực nghiệm) để xem xét sự diễn biến của biến phụ
thuộc, (nếu tồn tại mối quan hệ của biến phụ thuộc vào biến độc lập) có đúng với giả
thuyết ban đầu hay không? Nhóm đối chứng cho diễn biến phát triền hoàn toàn tự
nhiên không làm thay đổi bất cứ điều gì khác thường (nghĩa là không chịu tác động
có chủ định thông qua thay đổi biến độc lập từ người nghiên cứu). Đó là cơ sở để
kiểm tra những kết quả thay đổi của nhóm thực nghiệm. Nhờ những khác biệt của hai
nhóm mà ta có thể khẳng định hay phủ định giả thuyết của thực nghiệm.
Vì những đặc điểm trên cho nên việc tổ chức thực nghiệm trong nghiên cứu
khoa học xã hội, khoa học giáo dục được tiến hành như sau:
– Xây dựng giả thuyết thực nghiệm trên cơ sở phân tích kỹ các biến số độc lập
mà sự thay đổi của nó có thể làm thay đổi giá trị của các biến phụ thuộc.
– Để đảm bảo tính phổ biến của kết quả thực nghiệm, cần chọn các đối tượng
thực nghiệm tiêu biểu cho cả lớp đối tượng nghiên cứu. Các đối tượng này chia thành
hai nhóm: nhóm thực nghiệm và đối chứng tương đương nhau về số lượng và chất
lượng. Tổ chức kiểm tra đầu vào trước thực nghiệm để khẳng định tính tương đương
đó.

– Tiến hành các bước thực nghiệm thận trọng đối với mục tiêu mà giả thuyết đã
đề ra. Phải theo dõi sát sao tất cả những diễn biến một cách khách quan của hai nhóm
trong từng giai đoạn.
– Các kết quả thực nghiệm được xử lý bằng việc phân tích định tính, định
lượng bằng thống kê toán học để khẳng định mối liên hệ của các biến số (của biến
phụ thuộc vào biến độc lập) trong nghiên cứu không phải ngẫu nhiên mà là mối liên

hệ nhân quả xét theo bản chất của chúng.
– Kết quả thực nghiệm cho ta cơ sở để khẳng định giả thuyết, từ đó đề xuất
những khả năng ứng dụng vào thực tiễn.
d) Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm
Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm là phương pháp nghiên cứu
xem xét lại những thành quả của hoạt động thực tiễn trong quá khứ để rút ra những
kết luận bổ ích cho khoa học. Tổng kết kinh nghiệm thường hướng vào nghiên cứu
diễn biến và nguyên nhân của các sự kiện và nghiên cứu các giải pháp thực tiễn đã áp
dụng trong sản xuất hay trong hoạt động xã hội để tỉm ra các giải pháp hoàn hảo nhất.
Tổng kết kinh nghiệm cũng còn nhằm phát hiện logic các bước đi để giải một
bài toán sáng tạo trên cơ sở phân tích một loạt các thông tin về một giải pháp, ví dụ
như giải pháp trong lĩnh vực kĩ thuật. Đây chính là con đường sáng tạo theo quy tắc
algorithm.
e) Phương pháp chuyên gia
Phương pháp chuyên gia là phương pháp sử dụng trí tuệ của đội ngũ chuyên
gia có trình độ cao của một chuyên ngành để xem xét, nhận định bản chất một sự
kiện khoa học hay thực tiễn phức tạp, để tìm ra giải pháp tối ưu cho các sự kiện đó
hay phân tích, đánh giá một sản phẩm khoa học.
Ý kiến của từng chuyên gia bổ sung cho nhau, kiểm tra lẫn nhau và các ý kiến
giống nhau của đa số chuyên gia về một nhận định hay một giải pháp sẽ được coi là
kết quả tư vấn, xem xét, nghiên cứu.
Phương pháp chuyên gia là phương pháp rất kinh tế, tiết kiệm thời gian, sức
lực và tài chính. Tuy nhiên nó chủ yếu dựa trên cơ sở trực cảm hay kinh nghiệm của
chuyên gia, vì vậy nên sử dụng trong trường hợp cần tư vấn và khi các phương pháp
khác không có điều kiện thực hiện hay không thể thực hiện được.
2.4. XÂY DỰNG MỘT ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nghiên cứu khoa học là hoạt động khám phá nhằm tìm ra những điều chưa biết
về bản chất của sự vật, có ý nghĩa đem lại lợi ích cho xã hội, đồng thời góp phần cho
sự phát triển nhận thức khoa học. Để đạt được điều đó, người làm khoa học cần có
năng lực xây dựng đề cương nghiên cứu khoa học được cộng đồng các nhà khoa học

và xã hội chấp nhận. Năng lực đó, trước hết, được thể hiện từng bước thông qua các
hoạt động như: xác định luận điểm khoa học, xác định tên đề tài nghiên cứu, xác định
mục tiêu nghiên cứu, xác định nội dung và phương pháp nghiên cứu, lập kế hoạch
nghiên cứu, dự báo kết quả nghiên cứu và khả năng phân tích, giải thích các kết quả
nghiên cứu.
2.4.1. Xác định luận điểm khoa học
Để xây dựng một đề cương nghiên cứu, người nghiên cứu khoa học cần tìm ra
một cách rõ rằng luận điểm khoa học (Theoretical perspectives) của đề tài nghiên
cứu.
Luận điểm khoa học được xây dựng dựa trên nền tảng của triết lý khoa học,
trong đó đảm bảo tính “khách quan” (Objectiveness) trong khoa học được cho là

nguyên tắc cơ bản của nghiên cứu. Luận điểm khoa học được xây dựng dựa trên
những tiêu chí chủ yếu và cụ thể như :
– Giả thuyết khoa học (scientific/research hypothesis) – là những nhận định sơ
bộ, giả định về bản chất sự vật nhằm chứng minh cho những điều cần nghiên cứu.
– Cơ sở lý thuyết khoa học – là những lý thuyết khoa học mà các giả kế thừa từ
những nghiên cứu.
– Các luận cứ khoa học (evidence) – có thể là những số liệu thu thập qua quá
trình thực nghiệm, hay là các dẫn chứng hình ảnh, âm thanh xác thực,….
– Xác định phương pháp nghiên cứu (research methodology) phù hợp – đảm
bảo cho các luận cứ khoa học mà tác giả đưa ra là hoàn toàn thuyết phục.
– Các lập luận dựa trên cơ sở lý thuyết, thực nghiệm và so sánh với các kết quả
nghiên cứu trước đó, qua đó có thể chứng minh các luận cứ đã đưa ra là hoàn toàn
đúng đắn.
Xác định luận điểm khoa học là việc làm cần nhiều kinh nghiệm và kiến thức
khoa học, thể hiện kinh nghiệm và năng lực sáng tạo của người nghiên cứu. Để làm
được điều đó, người nghiên cứu phải luôn tự đặt cho mình những câu hỏi, suy nghĩ và
trả lời, ví dụ như : Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài mà mình định

thực hiện là gì ? Đề tài có mang tính cấp thiết không ? Có đủ điều kiện đảm bảo cho
việc hoàn thành đề tài không ? Đề tài có phù hợp với điều kiện về cơ sở vật chất
không ? Đề tài có phù hợp với sở thích không ?
Do vậy, giáo viên, với sự giúp đỡ của các nhà khoa học đóng vai trò quan trọng
trong việc giúp đỡ học sinh để biến các ý tưởng ban đầu của học sinh được hình
thành trong cuộc sống thành các luận điển khoa học, từ đó xây dựng thành những đề
tài/ dự án nghiên cứu khoa học.
2.4.2. Xây dựng đề cương nghiên cứu
Một đề cương nghiên cứu gồm các phần chủ yếu sau :
a. Tên dự án / đề tài khoa học
Tên đề tài phản ánh cô đọng nội dung nghiên cứu và ý tưởng thực hiện của đề
tài. Có nhiều cách đặt tên đề tài. Những thông tin được lựa chọn để đặt tên cho đề tài
thường là : nội dung chính của đề tài (1), mục tiêu nghiên cứu (2), phương pháp thực
hiện đề tài (3), địa điểm, môi trường hoặc phạm vi thực hiện đề tài (4).
Ví dụ : Sử dụng công nghệ gen để tạo giống lúa mới có khả năng chịu mặn
nhằm nâng cao năng suất lúa tại vùng đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam.
Tên dự án trên bao gồm các thành phần :
(1): tạo giống lúa mới có khả năng chịu mặn
(2): nâng cao năng suất lúa
(3): công nghệ gen
(4): vùng đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam
Tuy nhiên, tên đề tài không cần thiết quá dài và đầy đủ các thành phần mà tuân
theo nguyên tắc “ít chữ nhất nhưng mang nhiều thông tin nhất”, miễn sao thể hiện
được điều cốt lõi nhất mà đề tài cần nhất mạnh.
Tên dự án cần rõ ràng, không thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và rất quan
trọng là chỉ nằm trong giới hạn nghiên cứu của đề tài. Ví dụ, khi đề tài chỉ “nghiên
cứu khả năng chịu mặn của lúa để nâng cao năng suất” thì không nên đặt tên một
cách chung chung là “Nghiên cứu nâng cao năng suất lúa” mà cần xác định rõ nội
dung nghiên cứu ở đây chỉ là với giống lúa chịu mặn, và xác định rõ ràng giới hạn

của địa điểm nghiên cứu chỉ là ở miền Trung Việt Nam, để phân biệt với các vùng
khác.
Không nên đặt tên đề tài với giới hạn phạm vi nghiên cứu quá rộng, vượt quá
khả năng thực hiện.
Tên dự án khoa học công nghệ khi đem ra trình bày trước hội đồng khoa học
và tham dự các cuộc thi khoa học cần có kết quả rõ ràng. Do vậy, những cụm từ thể
hiện sự mở đầu như : “Thử bàn về….”, “Bước đầu…..”, “Một vài suy nghĩ về…..”,
“Khảo sát…..” cần nên tránh.
b. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu cần được làm rõ trong nghiên cứu khoa học, là cái đích về
nội dung mà người nghiên cứu đặt ra để định hướng và nỗ lực đạt tới. Mục tiêu của
đề tài xuất phát từ lý do chọn đề tài, trả lời câu hỏi “Tại sao lại chọn đề tài này để
nghiên cứu ?”, trong đó có ý nghĩa về mặt lý thuyết và ý nghĩa về mặt thực tiễn.
Mỗi đề tài nghiên cứu có mục tiêu khái quát – gọi là “Mục tiêu chung” hay
“Mục đích” (Aims) và “Mục tiêu cụ thể” (Objectives).
– Mục tiêu chung trả lời câu hỏi “Nghiên cứu để làm gì ?” – thể hiện ý nghĩa
khái quát của đề tài khoa học.
Cách thể hiện mục tiêu chung thường đi liền với các cụm từ chỉ mục đích của
nghiên cứu như : nghiên cứu nhằm…; nghiên cứu là để….; nghiên cứu góp phần….,
Ví dụ : mục tiêu chung của đề tài về cây lúa là nhằm tìm ra giống lúa chịu mặn
có năng suất cao.
– Mục tiêu cụ thể trả lời câu hỏi : Nghiên cứu đạt được đến mức nào ?- thể hiện
dự định kết quả mà đề tài cần đạt được.
Ví dụ: mục tiêu cụ thể của đề tài về cây lúa là nâng cao năng suất lúa lên 20%,
30% hay lên gấp đôi,….
Yêu cầu của mục tiêu nghiên cứu là phải : cụ thể (Specific), đo được
(Measurable), khả thi (Achievable), hiện thực (Realistic) và có thời hạn (Timebound).
Theo chữ cái đứng đầu trong tiếng Anh, có thể viết tắt yêu cầu xác định mục tiêu
nghiên cứu là : SMART.

Ở những đề tài lớn mang nhiều ý nghĩa, các mục tiêu chung kết hợp với các
mục tiêu cụ thể thành một “Cây mục tiêu” với các cấp độ cao thấp khác nhau (Mục
tiêu cấp I, mục tiêu cấp II, mục tiêu cấp III, ….).
c. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Giới hạn phạm vi nghiên cứu của một đề tài khoa học thể hiện quy mô của đề
tài, phụ thuộc vào nguồn lực, quỹ thời gian và khả năng nghiên cứu của tác giả.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu xác định số lượng mẫu khảo sát, giới hạn về thời
gian nghiên cứu, giới hạn về mục tiêu và nội dung nghiên cứu. Trong điều kiện khả
năng nghiên cứu chỉ có hạn, giới hạn phạm vi nghiên cứu cũng có thể xác định rõ
giới hạn về phương tiện và phương pháp nghiên cứu.
Khi đề cương của một đề tài khoa học nêu được một cách rõ ràng giới hạn
phạm vi nghiên cứu sẽ giúp cho hội đồng khoa học đánh giá đúng mức độ đóng góp
của đề tài và năng lực nghiên cứu của tác giả.
d. Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu, hay “vấn đề nghiên cứu” (Research problem) là những
nội dung khoa học mà người nghiên cứu cần thực hiện để đạt được mục tiêu. Khác
với mục tiêu nghiên cứu (trả lời câu hỏi “nghiên cứu để làm gì ?”) thì nội dung
nghiên cứu trả lời câu hỏi : Nghiên cứu cái gì ?.

đổi khác sự vật ship hàng cho tiềm năng hoạt động giải trí của con người. 2.1.3. Phương pháp NCKHPhương pháp NCKH là con đường, phương pháp nghiên cứu để đặt ra câu hỏikhoa học và xử lý vấn đề ( vấn đáp thắc mắc khoa học ) trải qua quan sát và thựcnghiệm. NCKH để thiết kế xây dựng tri thức khoa học là một quy trình, thường gồm các giaiđoạn sau : – Đặt ra câu hỏi khoa học ( về một vấn đề khoa học trong một nghành nào đó ) ; – Nghiên cứu tổng quan về những tác dụng nghiên cứu đã được công bố về vấnđề đó ; – Đưa ra giả thuyết khoa học ( mà nhờ giả thuyết này hoàn toàn có thể vấn đáp câu hỏi khoahọc đã nêu ở trên ; – Kiểm tra giả thuyết khoa học bằng thực nghiệm ; – Phân tích tài liệu thực nghiệm và rút ra Tóm lại ; – Trình bày và nhìn nhận tác dụng nghiên cứu. Việc nắm được các bước này giúp tổ chức triển khai quy trình tâm lý và lập kế hoạchtriển khai nghiên cứu đúng đắn. 2.1.4 Thành tựu khoa học đặc biệtTrong những tác dụng NCKH do hội đồng xã hội làm ra, có 1 số ít tác dụng, doý nghĩa của nó rất là to lớn, từ đó làm đổi khác cơ bản nhận thức của con người vềtự nhiên, xã hội và tư duy, làm đổi khác môi trường tự nhiên, điều kiện kèm theo sống của con người, được gọi là ý tưởng, phát hiện hay sáng tạo. a ) Phát minh : là sự tò mò ra những quy luật, những đặc thù hoặc nhữnghiện tượng của quốc tế vật chất sống sót một cách khách quan mà trước đó chưa ai biết, nhờ đó làm đổi khác cơ bản nhận thức của con người. Phát minh không có giá trịthương mại, không có khái niệm cấp bằng ý tưởng và không được bảo hộ pháp lý. Ví dụ : Archimet phát minh định luật về lực đẩy của nước, Lebedev phát minhtính chất áp suất của ánh sáng … b ) Phát hiện : là sự mày mò ra những vật thể, những quy luật xã hội đang tồntại một cách khách quan. Giống như ý tưởng, phát hiện không có giá trị thươngmại, không được bảo hộ pháp lý và cũng không có khái niệm cấp bằng ý tưởng. Ví dụ : Kock phát hiện vi trùng lao, Marie Curie phát hiện nguyên tố phóng xạradium, Colombo phát hiện châu Mỹ … c ) Sáng chế : là một giải pháp kỹ thuật mới về nguyên tắc kỹ thuật, tính sáng tạovà vận dụng được. Sáng chế có năng lực vận dụng nên có ý nghĩa thương mại, đượccấp bằng bản quyền sáng tạo độc quyền ( patent ), hoàn toàn có thể mua và bán bằng bản quyền sáng tạo, cấp giấy phépsử dụng ( licence ) và được bảo lãnh quyền sở hữu công nghiệp. Ví dụ : James Watt sáng tạo ra máy hơi nước ; Nobel sáng chế ra công thứcthuốc nổ TNT … 2.2. QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌCTrong khuôn khổ cuộc thi khoa học kỹ thuật cho học viên trung học, hai loại dự án Bất Động Sản đượcnghiên cứu nhiều đó là dự án Bất Động Sản khoa học và dự án Bất Động Sản kỹ thuật. Việc triển khai nghiêncứu với hai loại dự án Bất Động Sản trên được triển khai với những quy trình tiến độ khác nhau. Năm 2013 có tổng thể các nghành nghề dịch vụ nghiên cứu của học viên như sau : Lĩnh vựcSố dự án1. Kỹ thuật điện và cơ khí332. Khoa học môi trường183. Khoa học xã hội và hành vi134. Khoa học máy tính135. Vật liệu và công nghệ sinh học126. Hoá học107. Quản lý môi trường8. Hoá sinh9. Khoa học thực vật10. Vật lý và thiên văn học11. Năng lượng và vận tải12. Khoa học động vật13. Sinh học tế bào và Phân tử14. Khoa học Trái đất và hành tinh15. Toán học16. Y khoa và khoa học sức khoẻ17. Vi trùng học2. 2.1. Qui trình triển khai dự án Bất Động Sản khoa học ( Science Fair Project ) ( Phát Minh, Phát hiện ) Dưới đây là qui trình thực thi dự án Bất Động Sản khoa học đã được sơ đồ hoá. Hình 2.1 : Quy trình triển khai dự án Bất Động Sản khoa họcQui trình này gồm các quá trình sau : a. Đặt câu hỏi ( Ask Question ) : Hoạt động nghiên cứu khoa học thực sự chỉ và luôn mở màn bằng việc đặt mộtcâu hỏi về một điều gì đó người nghiên cứu quan sát được. Các câu hỏi thường sửdụng các dạng : Như thế nào ( How ), Cái gì ( What ), Khi nào ( When ), Ai ( Who ), Điềugì ( Which ), Tại sao ( Why ), hay Ở đâu ( Where ). Câu hỏi nghiên cứu thường hỏi về : Sự sống sót ( Existence ) ví dụ như Trẻ sơ sinhcó phân biệt được màu không ? ; Miêu tả, phân loại ( Description, Classification ) ví dụnhư Đặc điểm của sự quan tâm là gì ? ; Thành phần ( Composition ) ví dụ như Những yếutố nào tạo nên chỉ số IQ ? ; Mối liên hệ ( Reletionship ) ví dụ như Sự tập trung chuyên sâu chú ý quan tâm cóảnh hưởng tới chỉ số IQ không ? ; Mô tả, so sánh ( Descriptive – Comparative ) ví dụnhư Trí nhớ của người trẻ tuổi có tốt hơn trí nhở của người già ? ; Quan hệ nhân quả ( Causality ) vsi dụ như Luyện tập có dẫn tới kỹ năng và kiến thức không ? ; Quan hệ nhân quả, sosánh ( Causality – Comparative ) ví dụ như Tập aerobic có tốt hơn rèn luyện giảiquyết vấn đề trong việc nâng cao nhận thức của người cao tuổi ? Câu hỏi nghiên cứu yên cầu nhu yếu là : Khả thi ( Feasible ) ; Thú vị ( Interesting ) ; Mới lạ ( Novel ) ; Đạo đức ( Ethical ) ; Liên quan ( Relevant ). Để hình thành câu hỏi nghiên cứu cần xuất phát theo sơ đồ : Chủ đề RỘNGBroad topicChủ đề HẸPNarrowedtopicChủ đề QUAN TÂMFocused topicCâu hỏi NCResearch QuestionSức khoẻPhụ nữPhụ nữvà bệnh ung thư vúPhụ nữ hút thuốcVà ung thý vúCó hay không mối liên hệ giữahút thuốc là và bệnh ung thư vú ởphụ nữĐể vấn đáp được câu hỏi, cần phải thực thi các thí nghiệm để hoàn toàn có thể đo lườngđược với những tác dụng đơn cử. Việc đặt câu hỏi nghiên cứu phụ thuộc vào vào sự am hiểu của người nghiên cứutới chủ đề chăm sóc, vào tư duy phản biện, sự mê hồn nghiên cứu khoa học của ngườinghiên cứu. Câu hỏi thường Open trong quy trình học tập, vận dụng kiến thức và kỹ năng vàothực tiễn, tìm hiểu thêm thông tin khoa học từ các nguồn khác nhau, quan sát các hiệntượng, quy trình xảy ra trong tự nhiên, xã hội hay ở các thí nghiệm hoặc khi phântích, xử lí số liệu thu được từ các hiện tượng kỳ lạ, quy trình này. Một số câu hỏi thường được đặt ra thứ nhất để dẫn dắt tới câu hỏi nghiên cứu, ví dụ như : từ kim chỉ nan này hoàn toàn có thể dẫn tới những hệ quả nào ; hoàn toàn có thể xem xét đối tượngtừ những góc nhìn nào ; từ triết lý này hoàn toàn có thể ứng dụng trong thực tiễn như thế nào ; vấnđề gì còn sống sót trong đời sống chưa được xử lý ; những gì con người đangquan tâm xử lý nhiều nhất ; có cách nào khác tốt hơn không ; hoàn toàn có thể nâng cấp cải tiến sảnphẩm này như thế nào ; tương lai, điều gì sẽ xảy ra … Ví dụ : Tại sao khung trời mầu xanh ; Ngôi sao là gì và tại sao nó hoạt động vàoban đêm ; Âm thanh là gì ; Tại sao lá mầu xanh ; Tại sao quả bóng lại bị nổ khi thổicăng ; tại sao miền bắc Nước Ta mùa hè thì nóng, mùa đông thì lạnh ; làm thế nào đểphát hiện rau, hoa quả nhiễm chất bảo vệ thực vật bằng mắt thường ; nguyên do dẫntới xe máy, xe hơi bốc cháy trong thời hạn vừa mới qua là gì … b. Nghiên cứu tổng quan ( Do Background Research ) : Nội dung phần này cần tìm kiếm và xem xét những kiến thức và kỹ năng cơ bản liên quantới nghành nghiên cứu, các khu công trình nghiên cứu và những tác dụng có tương quan đãcông bố, trải qua việc khám phá thông tin tại thư viện, trên Internet … Qua đó, sẽtránh được những sai lầm đáng tiếc và biết được hướng nghiên cứu có thực sự cần và khả thikhông. Để làm được việc này, chiêu thức được sử dụng đa phần là nghiên cứu tàiliệu tương quan tới đề tài / dự án Bất Động Sản. Đó là những thông tin khoa học về cơ sở triết lý ; cácthành tựu triết lý đã đạt được ; hiệu quả nghiên cứu đã được công bố trên các ấnphẩm ; các số liệu thống kê ; chủ trương, chủ trương tương quan … Trên cơ sở đó, hìnhthành hạng mục tìm hiểu thêm ; nhìn nhận những thành tựu cũng như những sống sót của cáccông trình có tương quan ; xem xét mức độ ý nghĩa và khả thi của câu hỏi nghiên cứu đãđặt ra. c. Xây dựng giả thuyết ( Construct Hypothesis ) : Giả thuyết khoa học cần cẩm bảo các nhu yếu : Testable – Có thể kiểm chứngFalsifiable – Có thể bác bỏParsimonious – Đõn giản nhất có thểPrecise – Cụ thể, rõ ràng, chính xácUsefull – Hữu íchSound reasoning – Có cở sởClearly states the relationship between the defined variables – Làm rõ mối liênhệ giữa các biếnEasy to measure variables – Dễ đo các biếnTestable in a reasonable amount of time – Khả thi về TGGiả thuyết được xem như câu vấn đáp dự kiến cho câu hỏi nghiên cứu và thườngđược phát biểu bằng câu có mệnh đề “ nếu … thì …. ”. Đồng thời giả thuyết cũng cầnđược kiến thiết xây dựng dựa trên những cơ sở kim chỉ nan và địa thế căn cứ khoa học và phát biểu saocho thuận tiện cho việc nhìn nhận và kiểm chứng. Một giả thuyết được kiếm chứng là đúng thì giả thuyết được thừa nhận và trởthành một vấn đề khoa học bổ trợ cho nhận thức của con người và được sử dụngtrong các khu công trình nghiên cứu tiếp theo. Một giả thuyết bị bác bỏ cũng hoàn toàn có thể đượccoi như một hiệu quả nghiên cứu vì nó đã khẳng định chắc chắn được rằng : trong khoa học, không có điều như giả thuyết đã nêu ra. Trong bài, sự sinh ra và cái chết của các ýtưởng, Genle viết : “ Khi một giả thuyết phải lùi bước trước cuộc tiến công của những ýtưởng mới có nghĩa giả thuyết đã chết một cách vẻ vang ” Sau đây là ví dụ về những giả thuyết : “ phải chăng, sự khác nhau về nhiệt độgiữa mùa hè và mùa đông ở miền bắc việt nam là do khoảng cách từ mặt trời đến tráiđất biến hóa ” ; hay “ sự khác nhau về nhiệt độ giữa mùa hè và mùa đông ở miền bắcviệt nam là do sự quay của toàn cầu quanh trục nghiêng của nó ” ; “ xe máy, xe hơi cháy làdo xăng không chuẩn ” hay “ xe máy, ô cháy là cho chập mạng lưới hệ thống điện ” … d. Kiểm chứng ( giả thuyết ) bằng thực nghiệm ( Test with an Experiment ) : Để kiểm chứng một giả thuyết là đúng hay sai, cần phải sử dụng thực nghiệm. Một thực nghiệm sẽ được phong cách thiết kế và thực thi để thao tác đó. Điều quan trọng làthực nghiệm phải được triển khai một cách đúng đắn nhất, nghĩa là, cần đảm bảothực nghiệm được triển khai với sự đổi khác của một yếu tố trong khi các yếu tố khácđược giữ nguyên. Cũng cần thực thi thực nghiệm một vài lần hoặc theo những cáchthức khác nhau để bảo vệ tác dụng thu được là không thay đổi và đúng chuẩn nhất ( khôngphải là ngẫu nhiên ). Trong một thực nghiệm kiểm chứng, thường có 3 yếu tố đổi khác ( gọi là biến ) cần được xem xét trong tiến trình thực thi. Trong đó, biến do người nghiên cứu chủđộng biến hóa được gọi là biến độc lập ( independent variable ), biến đổi khác do sựbiến đổi của biến độc lập gây ra và được nhà khoa học đo đạc và ghi lại sự thay đổiđó gọi là biến phụ thuộc vào ( dependent variable ), biến cần giữ ở trạng thái không thay đổi trongquá trình thực nghiệm được gọi là biến trấn áp ( controlled variable ). Để bảo vệ thành công xuất sắc và cho hiệu quả đúng chuẩn, thực nghiệm cần được thiếtkế trước theo một tiến trình và hướng đến việc kiểm chứng hay bác bỏ giả thuyết. Cần thực thi đo đạc cẩn trọng sự biến hóa của các biến và ghi chép khá đầy đủ để thuậnlợi cho việc nghiên cứu và phân tích và Tóm lại. Trong nhiều trường hợp, không hề kiểm chứng trực tiếp giả thuyết được màphải suy ra các hệ quả từ giả thuyết bằng con đường suy luận diễn dịch lôgic. e. Phân tích hiệu quả và Kết luận ( Analyze Results Draw Conclusion ) : Sau khi hoàn thành xong thí nghiệm, các tài liệu thu được sẽ được nghiên cứu và phân tích và tổnghợp để khẳng định tính đúng, sai của giả thuyết. Giả thuyết hoàn toàn có thể sai, khi đó, cần xâydựng giả thuyết mới và liên tục kiếm chứng giả thuyết mới bằng thực nghiệm. Ngaycả khi giả thuyết đúng, người nghiên cứu hoàn toàn có thể sử dụng cách khác để kiểm chứnglại nhằm mục đích tăng độ an toàn và đáng tin cậy của Kết luận. Kết quả hoàn toàn có thể được nghiên cứu và phân tích trên cả hai phương diện, định tính và địnhlượng. Xử lý thông tin định lượng là việc sắp xếp các số liệu thu được để làm bộc lộra các mối liên hệ và xu thế của sự vật với nhiều định dạng khác nhau như số lượng rờirạc, bảng số liệu, biểu đồ, đồ thị. Trong nhiều trường hợp, cần dựa trên các số liệuthu được để đo lường và thống kê ra các đại lượng khác, suy ra mối quan hệ khác nhằm mục đích hỗ trợviệc kiểm chứng giả thuyết. Xử lý định tính là dựa trên số liệu rời rạc, khái quát hóavà đưa ra những Kết luận khái quát về mối liên hệ thực chất giữa các sự kiện. Khi nghiên cứu và phân tích hiệu quả cũng cần xem xét tới các yếu tố sai số hoàn toàn có thể có trong thínghiệm như các sai số ngẫu nhiên, sai số kỹ thuật hay sai số mạng lưới hệ thống. f. Báo cáo hiệu quả ( Report Results ) : Để kết thúc dự án Bất Động Sản khoa học, tác dụng nghiên cứu cần được trình diễn, bàn luận, công bố hay tham gia dự thi. Bản báo cáo hiệu quả của nghiên cứu hoàn toàn có thể trình diễn theo cấu trúc như sau : Tên đề tài / dự án Bất Động Sản ; tóm tắt đề tài / dự án Bất Động Sản nghiên cứu ; mục lục ; câu hỏi nghiên cứuvà giả thuyết khoa học ; báo cáo giải trình tổng quan ; hạng mục các vật tư, thiết bị ; trình tự thínghiệm ; nghiên cứu và phân tích tài liệu và bàn luận ; Tóm lại ; hướng tăng trưởng của đề tài / dự án Bất Động Sản ; lờicảm ơn ; tài liệu tìm hiểu thêm. Bản báo cáo phải nêu bật được ý nghĩa, tính mới của đề tài / dự án Bất Động Sản cũng như thểhiện được giải pháp nghiên cứu mang tính khoa học, hợp lý, cách nghiên cứu và phân tích, xử lísố liệu là khoa học để từ đó chứng minh và khẳng định được Tóm lại rút ra là khách quan, chính xácvà đáng tin cậy. Ví dụ : Báo cáo hiệu quả nghiên cứu đề tài “ Chế tạo máy phát điện nâng cấp cải tiến giárẻ cho người nghèo ở vùng núi đặc biệt quan trọng khó khăn vất vả ” LỜI CẢM ƠN ! Nhóm nghiên cứu khoa học thuộc đề tài “ Chế tạo máy phát điện nâng cấp cải tiến giárẻ cho người nghèo ở vùng núi đặc biệt quan trọng khó khăn vất vả ” chân thành cảm ơn đến cácthầy cô trong Ban chỉ huy trường THPT số 2 huyện Bảo Yên, tỉnh Tỉnh Lào Cai cùng cácthầy cô giáo đã tạo mọi điều kiện kèm theo giúp sức trong suốt thời hạn chúng em thực thi đềtài. Chúng em chân thành cảm ơn chỉ huy, bà con nhân dân bản Lúc – xã Bảo Hà huyện Bảo Yên – tỉnh Tỉnh Lào Cai đã tạo điều kiện kèm theo và tận tình trợ giúp để chúng em thửnghiệm thành công xuất sắc máy phát điện. Nhóm nghiên cứu chân thành cảm ơn các thầy cô cố vấn thuộc bộ Vật lýtrường trung học phổ thông số 2 huyện Bảo Yên đã hướng dẫn, giúp sức về kỹ thuật để nhómnghiên cứu hoàn thành xong đề tài này. Cuối cùng, nhóm nghiên cứu xin gửi lời san sẻ, lòng biết ơn đến mái ấm gia đình, bạnbè luôn động viên và tạo mọi điều kiện kèm theo để nhóm hoàn thành xong đề tài này. Trân trọng cảm ơn ! PHẦN I. MỞ ĐẦUI. Lý do chọn đề tàiTrong thời đại văn minh như lúc bấy giờ, hầu hết các thiết bị gia dụng đều cầnphải sử dụng điện. Điện đóng một vai trò to lớn trong việc tăng trưởng sản xuất, kinhtế, văn hóa truyền thống … của quốc gia. Nhưng thật đáng tiếc tại một số ít bản làng quê nhà em lạikhông có điện lưới Quốc gia. Điều này giúp em một phần lý giải được tại sao bàcon nông dân ở đây vẫn nghèo, vẫn khó khăn vất vả. Em thiết nghĩ do không có điện nên mọihướng dẫn bằng hình ảnh để làm giàu trải qua các chương trình TV và các thôngtin đại chúng khác đều khó hoàn toàn có thể đến được với những người dân nghèo nơi đây. Bêncạnh đó, các chủ trương, chủ trương, văn hóa truyền thống đời sống pháp lý của Nhà nước cũngchậm đến được với bà con. Mọi thông tin đến được với nhân dân đều trải qua cácvăn bản do chỉ huy thôn bản tiến hành nên nhiều lúc gây ra nhàm chán ít có giá trịtuyên truyền. Trong khu vực bản em sinh sống, 1 số ít mái ấm gia đình có điều kiện kèm theo đã dùngmáy phát điện sử dụng nguồn nước. Tuy nhiên, loại máy phát điện này hiệu suất rấtnhỏ, chỉ sử dụng được so với những mái ấm gia đình gần nguồn nước. Trong quy trình sửdụng máy phát điện loại này thường gặp 1 số ít sự cố như kẹt rác, lũ lụt, thiếu nước, đứt dây … máy đều không hoạt động giải trí được. Quá trình sử dụng điện luôn phải có thiết bịhoạt động dẫn đến sự tiêu tốn lãng phí điện và giảm thời hạn sử dụng của các thiết bị điện. Ngoài ra, ngân sách sử dụng điện bằng máy phát điện lại cao nên không tương thích với thunhập của đại bộ phận người dân nghèo. Xuất phát từ thực tiễn và những nguyên do trên đã thôi thúc em nghĩ ra ý tưởng sáng tạo chếtạo ra máy phát điện giá rẻ cho những người dân nghèo vùng núi có điều kiện kèm theo đặcbiệt khó khăn vất vả và khắc phục được những điểm yếu kém của máy phát điện thôngthường. II. Mục đích nghiên cứu của đề tài – Chế tạo ra máy phát điện ngân sách thấp vừa có năng lực phát điện vừa có khảnăng tích điện, không bắt các thiết bị phải sử dụng điện liên tục khi không cần thiếtnên hoàn toàn có thể làm tăng tuổi thọ cho các thiết bị. – Có thể sử dụng máy phát điện ở nhiều địa hình khác nhau. – Nâng hiệu suất phát điện so với các máy phát điện hiện hành. – Tránh được sự cố do mắc rác, không bị chập cháy do nước tràn vào máy khicó mưa lũ nước dâng cao. III. Ý nghĩa thực tiễn của đề tàiSự thành công xuất sắc của đề tài sẽ có một ý nghĩa to lớn trong việc tạo ra nguồn điệncho những người dân nghèo vùng núi đặc biệt quan trọng khó khăn vất vả quê nhà em. Máy phátđiện giá rẻ của chúng em hộ mái ấm gia đình nào cũng hoàn toàn có thể góp vốn đầu tư được. Bên cạnh ưu thếvề ngân sách, máy phát điện này còn có những tính năng ưu việt tiêu biểu vượt trội so với cácmáy phát điện thường thì như vừa phát điện, vừa có năng lực tích điện, trong quátrình hoạt động giải trí tránh mắc rác vào thân máy và Q. dây do mạng lưới hệ thống thân máy đượcđưa lên cao. Tăng suất điện động nhờ mạng lưới hệ thống puli truyền lực. Nếu được góp vốn đầu tư nghiên cứu để triển khai xong đề tài chúng em nghĩ rằng mình đãđóng góp một phần rất nhỏ so với sự tăng trưởng, kinh tế tài chính, chính trị, văn hóa truyền thống ở địaphương. IV. Đối tượng nghiên cứu – Một số tính năng mới của máy phát điện giá rẻ : Tăng tốc độ quay của từtrường nhằm mục đích tăng hiệu suất điện ; Khả năng tránh lũ và tránh rác cao hơn so với máyphát điện thông thường. – Khả năng ứng dụng của máy phát điện giá rẻ ở 1 số ít địa hình của vùng núitại xã Bảo Hà – huyện Bảo Yên – tỉnh Tỉnh Lào Cai. V. Phương pháp nghiên cứu1. Nhóm phương pháp lý luậnNghiên cứu các kim chỉ nan về từ thông, hiện tượng kỳ lạ cảm ứng điện từ. 2. Nhóm giải pháp nghiên cứu thực tiễnNghiên cứu cấu trúc của máy phát điện, khảo sát các nguồn nước tại địaphương, thử nghiệm lắp ráp máy phát điện tại các khu vực khác nhau. VI. Thời gian nghiên cứu : Từ tháng 8/2011 đến 01/2013. PHẦN HAI. NỘI DUNGI. Cơ sở lí thuyết1. Từ thôngTừ thông gửi qua một diện tích quy hoạnh đặt vuông góc với đường sức từ được xác địnhbằng công thức : Φ = BScosαVới : + Φ Từ thông ( Wb ) + B : cảm ứng từ ( T ) + S : diệntíchvòngdây ( m    + α = ( B, n ) 2. Hiện tượng cảm ứng điện từ – Hiện tượng cảm ứng điện từ : Khi từ thông gửi qua một mạch kín biến thiêntheo thời hạn trong mạch Open suất điện động cảm ứng. – Định luật cảm ứng điện từ ( Định luật Faraday ) : Độ lớn của suất điện động cảmứng Open trong mạch kín tỉ lệ với vận tốc biến thiên từ trải qua mạch kín đó. Suất điện động cảm ứng : eC = –    t3. Nguyên tắc tạo ra dòng điện xoay chiều – Xét một cuộn dây dẫn dẹt hình tròn trụ,  khép kín, quay quanh trục cố định và thắt chặt đồngphẳng với cuộn dây đặt trong từ trường đều B có phương  với trục quay. Giả sử lúc t = 0,  = 0 – Lúc t > 0   =  t, từ trải qua cuộn dây :  = NBScos  = NBScos  tVới N là số vòng dây, S là diện tích quy hoạnh mỗi vòng. –  biến thiên theo thời hạn t nên trong cuộn dây Open suất điện động cảmứng : e   d   NBS  sin  tdt – Suất điện động này biến thiên điều hòa theo thời hạn. – Suất điện động của máy tỉ lệ với vận tốc quay. 4. Máy phát điện xoay chiều một pha hoạt động giải trí dựa vào hiện tượng kỳ lạ cảmứng điện từ để tạo ra dòng điện xoay chiềuCấu tạo : – Phần cảm ( roto ) tạo ra từ thông biến thiên bằng các nam châm từ quay. – Phần ứng ( stato ) gồm các cuộn dây giống nhau, cố định và thắt chặt trên một vòng tròn. B2B1B3 + Từ trải qua mỗi cuộn dây biến thiên tuần hoàn với tần số : f  nptrong đó : n vận tốc quay của roto ( vòng / s ) ; p : số cặp cực. II. Ứng dụng sản xuất máy phát điện cải tiến1. Mô tả chungCấu tạo dựa trên nguyên tắc hoạt động giải trí của máy phát điện xoay chiều một phanhằm biến cơ năng của nước thành điện năng gồm : – Guồng nước có tính năng chuyển cơ năng của nước thành hoạt động quaycủa Pu Li to. – Đai truyền : Truyền hoạt động quay của Pu Li to đến Pu Li nhỏ với tốc độquay lớn hơn. – Pu Li nhỏ gắn với phần cảm tạo ra từ trường quay. – Phần ứng gồm các cuộn dây nhận từ thông biến thiên và tạo ra từ trườngquay. Làm từ trải qua các cuộn dây biến thiên Open một suất điện động cảmứng. Nối với mạch ngoài tạo thành dòng điện. – Dòng điện được cho qua đi ốt nắn dòng bằng đi ốt hình cầu sau đó qua tụ đểdòng được không thay đổi hơn. – Bộ đổi cực để chuyển chính sách dùng trực tiếp và chính sách tích điện. ( Hình ảnh của máy phát điện nâng cấp cải tiến ) 2. Những nâng cấp cải tiến mới nhằm mục đích khắc phục hạn chế của máy phát điện cũ – Thông thường các máy phát điện nước chia thành hai dạng máy đứng và máyngồi. Tuy nhiên toàn bộ các máy này đều có cánh quạt tiếp xúc với nước và cuộn dâyrất gần nước dẫn đến : Dễ bị nước vào máy dẫn đến chập cháy, khi có nước lón phảilập tức nhấc máy vào nơi bảo đảm an toàn và sẽ không hề phát điện được. ( máy cũ tiếp tục mắc rác, phải tháo để vệ sinh ) ( Hệ thống thân máy quá gần nguồn nước dễ bị chập cháy khi có lũ ) – Đối với ý tưởng sáng tạo của em sẽ dùng Pu Li và đai truyền nhằm mục đích hai mục tiêu : Tăngtốc độ của máy phát điện và đưa được cuộn dây ra xa nguồn nước vì thế trong điềukiện nước không to lắm không nhất thiết phải chuyển máy đi và vẫn phát điện bìnhthường. Ngoài ra còn tránh được rác mắc vào thân máy cũng như cuộn dây. ( Toàn bộ mạng lưới hệ thống được đưa lên cao nhờ puli truyền lực ) – Trong bộ phát điện chúng em dùng thêm cầu dao đổi cực để chuyển chính sách : Một cực dùng điện thông thường. Cực còn lại sử dụng khi không sử dụng điện vàomục đích gì sẽ chuyển sang chính sách tích điện ship hàng cho những lúc mưa lũ quá lớnmáy phát điện không hoạt động giải trí được. Đồng thời không bắt các thiết bị điện khác phảihoạt động khi không thiết yếu. III. Thử nghiệm máy phát điện cải tiếnĐế nhìn nhận tác dụng của máy phát điện cho đồng bào các dân tộc bản địa các vùng núikhó khăn. Nhóm nghiên cứ chúng em đã lắp thử nghiệm tại nhiều khu vực khác nhautại bản Lúc – xã Bảo Hà – huyện Bảo Yên – tỉnh Tỉnh Lào Cai. Theo dõi hoạt động giải trí máyphát điện trong một thời hạn dài tại nhà bạn Bùi Văn Trí lớp 12A6 từ 23 tháng 6 năm 2012 đến ngày 05/01/2013 và so sánh với các máy phát điện của người dân cùngbản về ba chỉ số : Lượng điện, tuổi thọ của các thiết bị điện, xử lý sự cố khi có lũ. Kết quả thu được như sau : 1. Lượng điệnĐối với các máy phát điện thường thì của các mái ấm gia đình khác lượng điệnthường không không thay đổi, cường độ dòng điện yếu. Khi xem ti vi thì không hề nấu cơm, điện sáng yếu, không hề dùng quạt hoặc quay rất yếu nguyên do là do vận tốc quaycủa từ trường chậm, dòng điện nhỏ. Với máy phát điện tại nhà bạn Bùi Văn Trí cường độ dòng điện luôn ổn địnhcó thể vừa thắp sáng, vừa nấu cơm, vừa quạt đồng thời sử dụng các thiết bị để sửachữa xe máy. 2. Tuổi thọ các thiết bị điệnCác thiết bị điện sử dụng các thiết bị khác hỏng rất nhanh đặc biệt quan trọng là bóng điệndùng để tiêu thụ điện dư. Bóng này chỉ 2 tháng là phải thay một bóng. Các quạtthường xuyên phải thay tụ khởi động do điện quá yếu, tụ khởi động phải thao tác quákhả năng. Đối với máy phát điện mới thì nhóm nghiên cứu chúng em không cần phảidùng bóng tiêu thụ điện dư. Khi không dùng điện em sẽ chuyển sang chính sách tích điệnđể dùng khi thiết yếu. Các quạt hoạt động giải trí thông thường. Ngoài ra giá tiền để làmmáy phát điện cũng không cao tương thích với thu nhập đồng bào miên núi3. Giải quyết sự cố khi có lũChỉ cần một trận mưa to nước suối về rất nhanh và mạnh các máy phát điệnphải lập tức chuyển lên cao. Nếu không sẽ bị chập cháy, cuốn trôi nếu không phátđược điện, vào buổi tối sẽ rất nguy khốn nếu triển khai việc tháo lắp máy để dichuyển. Cụ thể trong tháng 6 âm lịch có 7 lần mưa các nhà gần khu vực đều phải thựchiện việc làm này. Đối với máy phát điện mới của nhóm nghiên cứu thử nghiệm tại nhà bạn Tríviệc chuyển vị trí máy hầu hết không phải triển khai. Bởi máy phát điện qua bu lichuyền lực đã được nâng lên ở vị trí cao hơn rất nhiều thế cho nên hoàn toàn có thể tránh được lũbình thường. Đối với lũ to trọn vẹn hoàn toàn có thể cất máy đến nơi bảo đảm an toàn nhưng vẫn cóthể dùng điện ở mức tối thiểu do đã có bộ tích sử dụng tích điện trước đó. ( Nam và Trí bên máy máy phát điện nâng cấp cải tiến ) PHẦN BA. KẾT LUẬNI. Một số kết luậnSau một thời hạn tìm tòi nghiên cứu và thử nghiệm nhóm nghiên cứu chúngem đã sản xuất ra máy phát điện nâng cấp cải tiến có nhiều ưu việt so với máy phát điện thôngthường như giá rẻ, dễ sử dụng, suất điện động lớn, không thay đổi hoàn toàn có thể sử nhiều thiết bịđiện cùng một lúc, tuổi thọ của các thiết bị cao hơn so với các máy phát điện thôngthường. Ngoài ra, đặc tính ưu việt hơn hẳn so với máy phát điện thường thì là máyphát điện nâng cấp cải tiến của chúng em có năng lực vừa phát điện vừa tích điện nên khi cósự cố máy không phát điện hoàn toàn có thể vẫn sử dụng điện do máy có bộ phận tích điện. II. Kiến nghịTrong một thời hạn nghiên cứu ngắn, kinh phí đầu tư nghiên cứu hạn hẹp, phải đi lắpđặt thử nghiệm ở nhiều khu vực nên máy phát điện của chúng em không tránh khỏinhững sai xót kỹ thuật. Để ý tưởng biến thành hiện thực nhóm nghiên cứu chúng emđề nghị : – Chính quyền địa phương xã Bảo Hà tương hỗ kinh phí đầu tư shopping thiết bị kỹ thuật, tương hỗ luân chuyển, lắp ráp để chúng em hoàn toàn có thể lắp ráp máy phát điện cho một số ít hộgia đình ở vùng sâu, vùng xa, các hộ mái ấm gia đình có kinh tế tài chính khó khăn vất vả. – Đề nghị các thầy cô trong Ban chỉ huy trường THPT số 2 Bảo Yên hàngnăm tổ chức triển khai các cuộc thi phát minh sáng tạo để chúng em có điều kiện kèm theo góp sức những ý tưởngcủa mình, cho chúng em những sân chơi có ích, lành mạnh, phát huy hết được khảnăng của mình. 2.2.2 Qui trình triển khai dự án Bất Động Sản kĩ thuật ( Engineering Project ) ( Sáng chế ) Dưới đây là qui trình triển khai dự án Bất Động Sản kĩ thuật đã được sơ đồ hoá. Hình 2.2 : Quy trình thực thi dự án Bất Động Sản kỹ thuậta. Xác định vấn đề ( Define the Problem ) : Dự án kỹ thuật cũng luôn được mở màn bằng một câu hỏi về vấn đề mà ngườinghiên cứu quan sát được. Ví dụ như : Vấn đề ở đây là gì, Điều gì là thiết yếu, Ai cầngì, Tại sao cần phải xử lý, Có cách nào tốt hơn không, Cải tiến nó như thếnào … Trên cơ sở đó, đề xuất kiến nghị việc nghiên cứu tìm ra một qui trình, giải pháp kĩ thuậttối ưu hay sản xuất, nâng cấp cải tiến một loại sản phẩm kỹ thuật nào đó. Ví dụ : Tại các văn phòng, một mạng lưới hệ thống chiếu sáng thường được tinh chỉnh và điều khiển đóng, cắt bằng tay. Điều này cần nhân lực và phụ thuộc vào vào chính nhân lực ấy, nó sẽ tốnkinh phí, và việc đóng cắt hoàn toàn có thể không đúng mực do tính chủ quan của chính nhânlực. Nếu phong cách thiết kế và sản xuất được một mạng lưới hệ thống chiếu sáng tự động hóa đóng cắt theocường độ sáng của thiên nhiên và môi trường sẽ khắc phục được những điểm yếu kém trên cũng nhưtiết kiệm điện năng. b. Nghiên cứu tổng quan ( Do Background Research ) : Việc nghiên cứu tổng quan sẽ thừa kế kinh nghiệm tay nghề của người khác, tránhđược các sai lầm đáng tiếc khi nghiên cứu. Có hai vấn đề chính cần tìm hiểu và khám phá và nghiên cứutrong quy trình tiến độ này là : quan điểm của người sử dụng ( hay người mua ) và các ưu nhượcđiểm của các qui trình, giải pháp kĩ thuật hay thiết bị, loại sản phẩm đã có. Ví dụ : Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu tại thư viện, Internet hoàn toàn có thể rút ra một sốkết luận : Hệ thống chiếu sáng tự động hóa đã được nghiên cứu, sản xuất và đưa vào sửdụng ở các nước tiên tiến và phát triển. Đó là các mạng lưới hệ thống công nghiệp có độ an toàn và đáng tin cậy cao nhưnggiá thành cũng rất cao và nhiều khi chưa tương thích với điều kiện kèm theo môi trường tự nhiên, khí hậu ởViệt Nam. Để triển khai được thao tác đóng ngắt tự động hóa theo ánh sáng thiên nhiên và môi trường, thiết bị thường có 4 khối cơ bản đó là : nhận thông tin, giải quyết và xử lý, giải điều chế, thiết bịđầu cuối với nhiều giải pháp lựa chọn khác nhau về linh phụ kiện, mạch điện và côngnghệ … c. Xác định nhu yếu ( Specify Requirements ) : Nội dung của quy trình tiến độ này là đề xuất kiến nghị những nhu yếu, tiêu chí thiết kế cần phảiđạt được. Một trong những cách thiết kế xây dựng đề xuất kiến nghị tiêu chuẩn là dựa vào sự nghiên cứu và phân tích cácqui trình, giải pháp hay các mẫu sản phẩm đang có. Yêu cầu, tiêu chuẩn cần được xác lập vàphát biểu rõ ràng. Ví dụ : Hệ thống chiếu sáng tự động hóa cần phải bảo vệ : Đóng, cắt đèn chiếusáng đúng chuẩn với cường độ sáng được thiết lập ; Hoạt động tốt trong điều kiệncường độ sáng cao, nhiệt độ, nhiệt độ cao của khí hậu ở Nước Ta ; Hoạt động ổn địnhtrong khoảng chừng thời hạn dài ; Công suất cực lớn là 500W ; Nhỏ gọn và có ngân sách thấp. d. Đề xuất các giải pháp ( Create Alternative Solutions ) : Với nhu yếu và tiêu chuẩn đã đặt ra, luôn luôn có nhiều giải pháp tốt để giảiquyết. Nếu chỉ tập trung chuyên sâu vào một giải pháp, rất hoàn toàn có thể đã bỏ lỡ các giải pháp tốt hơn. Do vậy, trong quy trình tiến độ này, người nghiên cứu tìm cách yêu cầu số lượng tối đa cácgiải pháp hoàn toàn có thể, bám sát với nhu yếu, tiêu chuẩn đã nêu. Ví dụ : Có nhiều giải pháp để phong cách thiết kế mạng lưới hệ thống : – Phương án chọn cảm ứng : quang trở, photo diode, photo transistor … – Phương án chọn mạch giải quyết và xử lý : mạch so sánh, trigger … – Phương án về mạch động lực : Rơ le, Triac … Một trong các ví dụ khác là giải pháp khắc phục tật khúc xạ ( cận, viễn, lão thị ) trong thực tiễn có nhiều như : đeo kính tương thích ( đeo cách mắt hay áp tròng ), phẫu thuậtgiác mạc ( khi công nghệ tiên tiến laser tăng trưởng ) và sau này hoàn toàn có thể là biến hóa chiết suất củacác bộ phận cho ánh sáng truyền qua thuộc thấu kính mắt ( như thuỷ dịch, thể thuỷtinh, dịch thuỷ tinh .. v .. v .. ) e. Lựa chọn giải pháp ( Choose the Best Solution ) : Trên cơ sở các giải pháp đã đề xuất kiến nghị ở bước d, cần xem xét và nhìn nhận mộtcách tổng lực về mức độ tương thích với nhu yếu, tiêu chuẩn đã đặt ra cho loại sản phẩm ởbước c. Trên cơ sở đó, lựa chọn giải pháp tốt nhất và tương thích nhất với nhu yếu đặt ra. Việc lựa chọn giải pháp cũng cần địa thế căn cứ vào toàn cảnh về điều kiện kèm theo kinh tế tài chính, côngnghệ, trang thiết bị và nhân lực triển khai dự án Bất Động Sản kỹ thuật. Ví dụ : Giải pháp của mạng lưới hệ thống được lựa chọn địa thế căn cứ vào điều kiện kèm theo thực tiễn vềkhông gian, địa hình, hiệu suất chiếu sáng … của tòa nhà và mức độ phân phối yêu cầuvà tiêu chuẩn. Với một nơi có khoảng trống thoáng, chịu tác động ảnh hưởng trực tiếp của ánh sángmặt trời ; địa hình hẹp, tập trung chuyên sâu, hiệu suất chiếu sáng nhỏ. Do vậy giải pháp dùngcảm biến quang trở với mạch động lực dùng Triac là tương thích hơn cả. Giải pháp được lựa chọn để khắc phục tật khúc xạ tuỳ thuộc trước hết vào hiệuquả đem lại, tuy nhiên còn vào điều kiện kèm theo kinh tế tài chính và sở trường thích nghi của từng người. Có ngườichọn giải pháp đeo kính cách mắt, có người sử dụng kính áp tròng và cũng có ngườichọn giải pháp phẫu thuật giác mạc. f. Hoà thiện giải pháp ( Develop the Solution ) : Mặc dù đã được chọn, giải pháp thực thi cũng cần xem xét lại để nâng cấp cải tiến, hoàn thành xong. Đây là một việc quan trọng và cần được xem xét liên tục. Ngay cảkhi hoàn thành xong và đưa tới người mua vẫn hoàn toàn có thể nghĩ tới việc triển khai xong nó trongnhững nghiên cứu tiếp theo. Trong bước này, cần tự đặt và vấn đáp các câu hỏi dạngnhư : ưu điểm lớn nhất của giải pháp là gì, hạn chế còn sống sót của giải pháp là gì, cócách nào khắc phục hạn chế đó … Ví dụ : Hệ thống sau khi được phong cách thiết kế cần được thử nghiệm, mô phỏng trênmáy tính. Đo đạc các thông số kỹ thuật nguồn vào như cường độ sáng, thời hạn trễ … Kiểm trađầu ra như năng lực chịu tải, gây nhiễu … Từ đó, kiểm soát và điều chỉnh tối ưu hóa các thông sốcủa mạch. g. Xây dựng mẫu ( Build a Prototype ) : Mẫu loại sản phẩm được xem như thể phiên bản “ hoạt động giải trí ” dựa trên giải pháp. Thường thì nó được sản xuất bởi các vật tư không giống với loại sản phẩm cuốicùng, và lẽ đương nhiên, chưa cần chăm sóc tới tính mỹ thuật của mẫu sản phẩm. Mẫu nàysẽ được xem xét, nhìn nhận, kiểm tra có phân phối các nhu yếu, tiêu chuẩn đã đặt ra cho sảnphẩm hay chưa. Ví dụ : Tiến hành lắp ráp mạch, cho mạch hoạt động giải trí thử tại hiện trường. Tiếnhành khảo sát đo đạc các thông số thực của mạch. Có những đổi khác, kiểm soát và điều chỉnh chophù hợ với điều kiện kèm theo thực tiễn. h. Đánh giá và triển khai xong phong cách thiết kế ( Test and Redesign ) : Quá trình triển khai xong phong cách thiết kế tương quan tới các hoạt động giải trí có tính tái diễn hướngtới việc có một loại sản phẩm tốt nhất. Một trong số đó là : Đánh giá giải pháp – tìm kiếmlỗi và đổi khác – Đánh giá giải pháp mới – tìm kiếm lỗi mới và đổi khác …., trước khikết luận về bản thiết kế sau cuối. Ví dụ : Hệ thống được thử nghiệm và theo dõi trong một thời hạn. Ghi nhậnnhững lỗi phát sinh, nếu lỗi hoàn toàn có thể khắc phục được thì hoàn toàn có thể hoàn thành xong mạch để sảnxuất. Nếu lỗi phát sinh nhiều, khó hoặc không khắc phục thì phải phong cách thiết kế lại mạch. 2.3. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌCPhương pháp NCKH là mạng lưới hệ thống các thao tác có tính qui trình lên đối tượngnghiên cứu và tương quan đến đối tượng người tiêu dùng nghiên cứu mà nhà nghiên cứu thực thi đểđạt đến mục tiêu nghiên cứu. Trong NCKH, chiêu thức góp thêm phần quyết địnhthành công của mọi quy trình nghiên cứu. Đối tượng NCKH ở các nghành nghề dịch vụ khoa học khác nhau có những đặc thù khácnhau nên có nhiều chiêu thức NCKH khác nhau. Việc phân loại chúng thành hệthống các nhóm thường dựa vào các đặc thù như : khoanh vùng phạm vi sử dụng, kim chỉ nan thôngtin về quy trình tiến độ nghiên cứu một để tài khoa học, trình độ nhận thức khoa học chungcủa loài người. Trong trong thực tiễn, tùy theo mục tiêu và đặc thù chuyên ngành người ta sử dụngphối hợp nhiều chiêu thức để tương hỗ và kiểm tra lẫn nhau nhằm mục đích khẳng định chắc chắn các kếtquả nghiên cứu. Mỗi một nghành nghề dịch vụ khoa học có một số ít các giải pháp đặc trưng. Trong một đề tài / dự án Bất Động Sản, người ta hoàn toàn có thể sử dụng một mạng lưới hệ thống nhiều phươngpháp phối hợp. Dưới đây trình diễn nhóm các chiêu thức NCKH chung nhất mà những ngườinghiên cứu thường sử dụng. Các giải pháp NCKH chung nhất là một mạng lưới hệ thống các chiêu thức, được chiathành hai nhóm : Nhóm giải pháp nghiên cứu triết lý ( Theoretical Method ) vànhóm chiêu thức nghiên cứu thực tiễn ( còn gọi là chiêu thức kinh nghiệm tay nghề, thựcnghiệm – Empirical Method ). Gần đây, do toán học tăng trưởng và có vai trò hết sứcquan trọng trong NCKH nên một nhóm giải pháp mới : nhóm giải pháp Toánhọc được bổ trợ vào mạng lưới hệ thống này. 2.3.1. Nhóm giải pháp nghiên cứu lý thuyếtPhương pháp nghiên cứu triết lý là nhóm các chiêu thức tích lũy thông tinkhoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu đã có và bằng các thao tác tư duylogic để rút ra các Tóm lại khoa học thiết yếu. Nhóm phương pháp lý thuyết gồm các giải pháp đơn cử sau đây : a. Phương pháp nghiên cứu và phân tích và tổng hợp lý thuyết. – Phương pháp nghiên cứu và phân tích kim chỉ nan là chiêu thức nghiên cứu các văn bản, tàiliệu lý luận khác nhau về một chủ thể bằng cách nghiên cứu và phân tích chúng thành từng bộ phận, từng mặt theo lịch sử dân tộc thời hạn, để hiểu chúng một cách khá đầy đủ tổng lực. Phân tíchlý thuyết còn nhằm mục đích phát hiện ra những khuynh hướng, những phe phái nghiên cứu củatừng tác giả và từ đó tinh lọc những thông tin quan trọng ship hàng cho đề tài nghiêncứu của mình. – Phương pháp tổng hợp lý thuyết là những chiêu thức link từng mặt, từng bộ phận thông tin từ các kim chỉ nan đã tích lũy được để được tạo ra một hệ thốnglý thuyết mới khá đầy đủ và thâm thúy về chủ đề nghiên cứu. Tổng hợp lý thuyết được thựchiện khi ta đã tích lũy được nhiều tài liệu phong phú và đa dạng về một đối tượng người tiêu dùng. Tổng hợp chochúng ta tài liệu tổng lực và khái quát hơn các tài liệu đã có. – Phân tích và tổng hợp lí thuyết là hai giải pháp có khunh hướng đối lậpnhau tuy nhiên chúng lại thống nhất biện chứng với nhau. Phân tích sẵn sàng chuẩn bị cho tổng hợpvà tổng hợp lại giúp cho nghiên cứu và phân tích càng thâm thúy hơn. Nghiên cứu triết lý thường khởi đầu từ nghiên cứu và phân tích các tài liệu đã tìm ra cấu trúccác triết lý, các phe phái, các khuynh hướng phát triền của kim chỉ nan. Từ phân tíchngười ta lại tổng hợp chúng lại để kiến thiết xây dựng thành một mạng lưới hệ thống khái niệm, phạm trù, tiến tới tạo thành các kim chỉ nan khoa học mới. b. Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lý thuyết – Phân loại là chiêu thức sắp xếp các tài liệu khoa học thành một hệ thốnglogic ngặt nghèo theo từng mặt, từng đơn vị chức năng kiến thức và kỹ năng, từng vấn đề khoa học có cùngdấu hiệu thực chất, cùng một hướng tăng trưởng. Phân loại làm cho khoa học từ chỗ có cấu trúc phức tạp trong nội dung thànhcái dễ nhận thấy, dễ sử dụng theo mục tiêu nghiên cứu của các đề tài. Phân loại còngiúp phát hiện cấu trúc của mạng lưới hệ thống, các quy luật phát triền của mạng lưới hệ thống, cũng nhưsự tăng trưởng của mạng lưới hệ thống, để từ đó mà Dự kiến được các xu thế phát triền của hệthống. – Phương pháp hệ thống hóa là giải pháp sắp xếp tri thức khoa học thành hệthống trên cơ sở một quy mô triết lý làm cho sự hiểu biết của ta về đối tượng người dùng đượcđầy đủ và thâm thúy. Hệ thống hóa là giải pháp tuân theo quan điểm mạng lưới hệ thống – cấu trúc trongnghiên cứu khoa học. Những thông tin phong phú tích lũy từ các nguồn, các tài liệukhác nhau, nhờ chiêu thức hệ thống hóa mà ta có được một chính thể với một kếtcấu ngặt nghèo để từ đó mà ta thiết kế xây dựng một kim chỉ nan mới hoàn hảo. Phân loại và hệ thống hóa là hai giải pháp đi liền với nhau, trong phân loạiđã có yếu tố hệ thống hóa, hệ thống hóa phải dựa trên cơ sở của phân loại và hệ thốnghóa làm cho phân loại được vừa đủ và đúng mực hơn. Phân loại và hệ thống hóa làhai bước để tạo ra những kỹ năng và kiến thức mới thâm thúy và tổng lực. c. Mô hình hóa ( Phương pháp quy mô ) Mô hình hóa là một giải pháp khoa học để nghiên cứu các đối tượng người tiêu dùng, cácquá trình … bằng cách thiết kế xây dựng các quy mô của chúng ( các quy mô này bảo toàncác đặc thù cơ bản được trích ra của đối tượng người tiêu dùng đang nghiên cứu ) và dựa trên môhình đó để nghiên cứu trở lại đối tượng người tiêu dùng thực. Mô hình là một mạng lưới hệ thống các yếu tố vật chất hoặc ý niệm ( tư duy ) để trình diễn, phản ánh hoặc tái tạo đối tượng người dùng cần nghiên cứu, nó đóng vai trò đại diện thay mặt, sửa chữa thay thế đốitượng thực sao cho việc nghiên cứu quy mô cho ta những thông tin mới mà cácthông tin này hoàn toàn có thể chuyển tải, vận dụng cho đối tượng người dùng thực. Mô hình có những đặc thù sau : – Tính tựa như : có sự tương tự như giữa quy mô và vật gốc, chúng có những đặcđiểm cơ bản hoàn toàn có thể so sánh với nhau được như : cấu trúc ( đẳng cấu ), tính năng, thuộc tính, chính sách quản lý và vận hành …. Song sự tương tự như giữa quy mô và đối tượng người tiêu dùng thực ( vậtgốc ) chỉ là tương đối. – Tính đơn thuần : quy mô chỉ phán ánh một hoặc một số ít mặt nào đó của đốitượng gốc. – Tính trực quan : quy mô là sự tái hiện đối tượng người dùng nghiên cứu dưới dạng trựcquan. – Tính lý tưởng : khi quy mô hóa đối tượng người dùng gốc, ta đã khái quát hóa, trừu tượnghóa, phản ánh đặc tính của đối tượng người tiêu dùng gốc ở mức độ hoàn thành xong hơn ( lý tưởng ). – Tính quy luật riêng : quy mô có những đặc thù riêng được lao lý bởi cácphần tử tạo nên nó. Ví dụ quy mô tế bào được làm bởi vật liệu khác với tế bào thực ; quy mô trường học tiên tiến và phát triển có nét riêng bởi các thành tố của trường đó ( đội ngũ, cơsở vật chất, thiên nhiên và môi trường giáo dục, quản trị … ). Việc phân loại quy mô có nhiều cách, dựa vào những tín hiệu khác nhau như : – Dựa vào tín hiệu vật chất và niềm tin, có 2 loại : + Mô hình vật chất gồm : quy mô hình học, quy mô vật lý, quy mô vật chất toán học. + Mô hình niềm tin ( tư duy ) gồm : quy mô hình tượng ( quy mô trí tuệ ) môhình logic – toán ( quy mô công thức, ký hiệu … ). – Dựa vào mô hình quy mô có các loại : quy mô kim chỉ nan, quy mô thựcnghiệm … – Dựa vào nội dung phản ánh, có hai loại : quy mô cấu trúc, quy mô chứcnăng. – Dựa vào đặc thù của quy mô, có rất nhiều loại. Trong thực tiễn nghiên cứu trong các nghành nghề dịch vụ khoa học khác nhau, tùy theo đốitượng nghiên cứu, người nghiên cứu hoàn toàn có thể lựa chọn các mô khác nhau. Mô hình toán : là quy mô được sử dụng phổ cập trong nhiều nghành nghề dịch vụ nghiêncứu khoa học tân tiến. Người nghiên cứu dùng các loại ngôn từ toán học. Cơ sởlogic của chiêu thức quy mô là phép loại suy. Phương pháp quy mô được cho phép thực thi nghiên cứu trên những quy mô ( vậtchất hay ý niệm ( tư duy ) ) do người nghiên cứu tạo ra ( lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơnđối tượng thực ) để thay thế sửa chữa việc nghiên cứu đối tượng người dùng thực. Điều này thường xảy rakhi ngườinghiên cứu không hề hoặc rất khó nghiên cứu đối tượng người dùng thực trong điềukiện thực tiễn. Phương pháp quy mô xem xét đối tượng người tiêu dùng nghiên cứu như một mạng lưới hệ thống ( tổng thể và toàn diện ), tuy nhiên tách ra từ mạng lưới hệ thống ( đối tượng người dùng ) các mối quan hệ, liên hệ có tính quyluật có trong thực tiễn nghiên cứu, phản ánh được các mối quan hệ, liên hệ đó của cácyếu tố cấu thành mạng lưới hệ thống – đó là sự trừu tượng hóa mạng lưới hệ thống thực. Dùng chiêu thức quy mô giúp người nghiên cứu dự báo, Dự kiến, đánh giácác ảnh hưởng tác động của các giải pháp điều khiển và tinh chỉnh, quản trị mạng lưới hệ thống. Ví dụ : sử dụng phươngpháp nghiên cứu và phân tích cấu trúc ( đặc biệt quan trọng là cấu trúc khoảng trống, các bộ phận hợp thành cóbản chất vật lý giống hệt đối tượng người tiêu dùng gốc ) để phản ánh, suy ra cấu trúc của đối tượnggốc như : quy mô động cơ đốt trong, quy mô tế bào, sa bàn …. d. Phương pháp giả thuyếtPhương pháp giả thuyết là chiêu thức nghiên cứu đối tượng người dùng, trong đó đưa radự đoán thực chất của đối tượng người dùng và tìm cách kiểm chứng Dự kiến đó. Như vậyphương pháp giả thuyết có hai tính năng : công dụng Dự kiến và công dụng chỉđường, trên cơ sở Dự kiến mà tìm thực chất của sự kiện. Với hai tính năng đó giảthuyết đóng vai trò là một chiêu thức nhận thức. Trong NCKH khi phát hiện ra các hiện tượng kỳ lạ, quy trình mới mà với kiến thứcđã có, không hề lý giải được, người ta thường dựa vào kỹ năng và kiến thức và kinh nghiệmđã biết, và với trí tưởng tượng, trực giác mà đưa ra giả thuyết để lý giải hiện tượngmới đó. Đó chính là con đường kiến thiết xây dựng giả thuyết. Trong giả thuyết, Dự kiến được lập luận theo lối giả định – suy diễn, có tính xácsuất, cho nên vì thế cần phải chứng tỏ. Chứng minh giả thuyết được triển khai bằng haicách : chứng tỏ trực tiếp và chứng tỏ gián tiếp. Chứng minh trực tiếp là phépchứng minh dựa vào các luận chứng chân thực và bằng các quy tắc suy luận để rút raluận đề. Chứng minh gián tiếp là phép chứng tỏ chứng minh và khẳng định rằng phản luận đề làgian dối và từ đó rút ra luận đề chân thực. Với tư cách là chiêu thức biện luận, giả thuyết được sử dụng như thể một thínghiệm của tư duy, thử nghiệm phong cách thiết kế các hành vi triết lý. Suy diễn để rút racác Tóm lại chân thực từ giả thuyết là thao tác logic quan trọng của quy trình NCKH.Phương pháp giả thuyết nêu trên thường được sử dụng trong toán học. Cũngcần quan tâm rằng, giả thuyết được nói đến trong chiêu thức khoa học ( scientificmethod ) chỉ hoàn toàn có thể được kiểm chứng ( chứ không phải chứng tỏ ) bằng con đườngthực nghiệm ( chứ không hề bằng con đường suy luận lôgic như trên ). e. Phương pháp lịch sửPhương pháp lịch sử dân tộc là giải pháp nghiên cứu bằng con đường đi tìm nguồngốc phát sinh, quy trình phát triền và biến hóa của đối tượng người dùng, để phát hiện thực chất vàquy luật của đối tượng người dùng. Mọi sự vật và hiện tượng kỳ lạ của tự nhiên và xã hội đều có lịch sử dân tộc hình thành vàphát triển, tức là có nguồn gốc phát sinh, có hoạt động phát triền và diệt vong. Quytrình phát triền lịch sử dân tộc biểu lộ hàng loạt tính đơn cử của nó, với mọi sự đổi khác, những bước quanh co, những cái ngẫu nhiên, những cái tất yếu, phức tạp, muôn hình, muôn vẻ, trong các thực trạng khác nhau và theo một trật tự thời hạn nhất định. Lầntheo dấu vết của lịch sử vẻ vang tất cả chúng ta sẽ có bức tranh trung thực về bản thân đối tượngnghiên cứu. 2.3.1 Nhóm các chiêu thức nghiên cứu thực tiễnNhóm các chiêu thức nghiên cứu thực tiễn là nhóm các giải pháp trựctiếp tác động ảnh hưởng vào đối tượng người tiêu dùng có trong thực tiễn để làm thể hiện thực chất và các quy luậtvận động của các đối tượng người tiêu dùng ấy. Nhóm này có các giải pháp đơn cử sau đây : a. Phương pháp quan sátQuan sát là chiêu thức tri giác có mục tiêu, có kế hoạch một sự kiện, hiệntượng, quy trình ( hay hành vi cử chỉ của con người ) trong những thực trạng tựnhiên khác nhau nhằm mục đích tích lũy những số liệu, sự kiện đơn cử đặc trưng cho quátrìnhdiễn biến của sự kiện, hiện tượng kỳ lạ đó. Quan sát khoa học được thực thi trong thời hạn dài hay ngắn, không gianrộng hay hẹp, đối tượng người dùng nhiều hay ít tùy thuộc vào mục tiêu nghiên cứu của các đềtài. Các tài liệu quan sát qua giải quyết và xử lý đặc biệt quan trọng cho ta những Tóm lại không thiếu, đúng chuẩn vềđối tượng. Có hai loại quan sát khoa học : quan sát trực tiếp và quan sát gián tiếp. – Quan sát trực tiếp là quan sát trực diện đối tượng người tiêu dùng đang diễn biến trong thực tếbằng mắt thường hay bằng các phương tiện kĩ thuật như : máy quan trắc, kính thiênvăn, kính hiển vi … để tích lũy thông tin một cách trực tiếp. – Quan sát gián tiếp là quan sát diễn biến hiệu suất cao của các ảnh hưởng tác động tương tácgiữa đối tượng người dùng cần quan sát với các đối tượng người dùng khác, mà bản thân đối tượng người tiêu dùng nghiêncứu không hề quan sát trực tiếp được, ví dụ : khi nghiên cứu các hạt cấu trúc nênnguyên tử, cần triển khai các quan sát gián tiếp. Quan sát khoa học có ba tính năng : – Chức năng tích lũy thông tin thực tiễn, đây là tính năng quan trọng nhất. Các thông tin này qua giải quyết và xử lý cho ra những hiểu biết có giá trị về đối tượng người tiêu dùng. – Chức năng kiểm chứng các giả thuyết hay các triết lý đã có. Trong nghiêncứu khoa học khi cần xác định tính đúng đắn của các kim chỉ nan hay giả thuyết nào đó, các nhà khoa học cần phải tích lũy các tư liệu từ thực tiễn để kiểm chứng. Qua thựctiễn kiểm nghiệm mới khẳng định chắc chắn được độ đáng tin cậy của triết lý. – Chức năng so sánh các hiệu quả nghiên cứu kim chỉ nan với thực tiễn để tìm rasự rơi lệch của chúng, mà tìm cách bổ khuyết, triển khai xong kim chỉ nan. Quá trình quan sát được triển khai như sau : – Xác định đối tượng người dùng quan sát trên cơ sở mục tiêu của đề tài đồng thời xácđịnh cả các phương diện đơn cử của đối tượng người dùng cần phải quan sát. – Lập kế hoạch quan sát : thời hạn, khu vực, số lượng đối tượng người tiêu dùng, người quansát, phương diện đơn cử của đối tượng người tiêu dùng cần phải quan sát. – Lựa chọn phương pháp quan sát : quan sát trực tiếp, quan sát gián tiếp, quansát bằng mắt thường hay bằng các phương tiện kĩ thuật, quan sát một lần hay nhiềulần, số người quan sát, khu vực, thời gian và khoảng cách thời hạn cho mỗi lầnquan sát … – Tiến hành quan sát đối tượng người tiêu dùng rất là thận trọng, phải theo dõi từng diễn biếndù là nhỏ nhất kể cả ảnh hưởng tác động của những ảnh hưởng tác động khác từ bên ngoài tới đối tượng người dùng. – Xử lý tài liệu : Các tài liệu do các cá thể quan sát được là tài liệu cảm tính, mang tính chủ quan, chưa phải là tài liệu khoa học. Các tài liệu này cần phải được xửlý thận trọng bằng cách phân loại, hệ thống hóa, bằng thống kê toán học, bằng máytính mới đáng an toàn và đáng tin cậy, các tài liệu qua giải quyết và xử lý cho ta thông tin đúng đắn và khái quát vềđối tượng nghiên cứu. – Để kiểm tra các hiệu quả quan sát khách quan, người ta thường sử dụng mộtloại các giải pháp tương hỗ khác như : trao đổi trực tiếp với nhân chứng, lặp lại quan sátnhiều lần, quan sát lại bởi các người, nhóm nghiên cứu khác … Bất cứ một quan sátnào cũng đều do con người triển khai, cho nên vì thế phải tính đến các đặc thù của quátrình quan sát. Để tránh những sai sót hoàn toàn có thể xảy ra cần quan tâm 1 số ít điểm sau đây : – Một là : Chủ thể quan sát là các nhà khoa học hay các cộng tác viên. Đã là conngười đều bị các quy luật tâm ý chi phối. Mỗi cá thể đều có tính chủ quan. Chủquan ở trình độ kinh nghiệm tay nghề, ở thế giới quan, ở cảm hứng. Quan sát khi nào cũngthông qua lăng kính chủ quan, có “ cái tôi ” trong loại sản phẩm. Ngay cả khi sử dụng máyquay phim “ vô tri ” người cầm máy cũng vẫn quay theo góc nhìn mà họ muốn. Các chủquan hoàn toàn có thể là nguồn gốc của mọi sự rơi lệch. – Hai là : Phải chú ý quan tâm tới các quy luật của cảm xúc, tri giác như quy luật lựachọn, quy luật thích ứng với các ảo giác. – Ba là : Đối tượng quan sát là quốc tế phức tạp. Sự đúng chuẩn của quan sát mộtmặt do trình độ của con người, mặt khác do sự thể hiện của chính đối tượng người tiêu dùng. Đối tượngnằm trong một mạng lưới hệ thống có mối quan hệ phức tạp với đối tượng người dùng phức tạp khác, nó lạiluôn hoạt động, phát triền và đổi khác. Cho nên việc xác lập đúng các chỉ số trọngâm về đối tượng người tiêu dùng cần quan sát là điều rất quan trọng. Tóm lại, quan sát là một giải pháp nghiên cứu khoa học quan trọng tuynhiên chúng chưa đạt tới trình độ nhận thức thực chất bên trong của đối tượng người dùng. Cầnphải sử dụng phối hợp quan sát với các giải pháp khác để đạt tới hiệu quả bản chấtvà khách quan. Quan sát đem lại cho người nghiên cứunhững tài liệu đơn cử, cảm tính trựcquan, tuy nhiên có ý nghĩa khoa học rất lớn, đem lại cho khoa học những giá trị thực sự. Chẳng hạn như : Pavlôv nhờ có quan sát đã thiết kế xây dựng được học thuyết “ Phảnxạ có điều kiện kèm theo ” ; Niutơn quan sát hiện tượng kỳ lạ quả táo rơi, khái quát và thiết kế xây dựng nên : “ Định luật vạn vật mê hoặc ” ; Galilê quan sát giao động của chiếc đèn lồng trong nhàthờ từ lúc khởi đầu đến lúc tắt, đã khái quát và nêu ra định luật hoạt động của conlắc đơn với chu kỳ luân hồi T xác lập. b ) Phương pháp điều traĐiều tra là chiêu thức dùng những câu hỏi ( hoặc bài toán ) hàng loạt đặt racho một số ít lớn người nhằm mục đích thu được số những quan điểm chủ quan của họ về một vấn đềnào đó mà người nghiên cứu chăm sóc. Điều tra là giải pháp khảo sát một nhóm đối tượng người dùng trên một diện rộngnhằm phát hiện các quy luật phân bổ, trình độ phát triền, những đặc thù về mặt địnhtính và khuynh hướng của các đối tượng người dùng cần nghiên cứu. Các tài liệu tìm hiểu được sẽ lànhững thông tin quan trọng về đối tượng người tiêu dùng, cần cho các quy trình nghiên cứu và là căncứ quan trọng để đề xuất kiến nghị những giải pháp khoa học hay giải pháp thực tiễn. Có hai loại tìm hiểu : tìm hiểu cơ bản và tìm hiểu xã hội học. – Điều tra cơ bản là khảo sát sự xuất hiện của các đối tượng người tiêu dùng trên một diện rộng, để nghiên cứu các quy luật phân bổ cũng như các đặc thù về mặt định tính và địnhhướng. Ví dụ : Điều tra địa hình, địa chất, tìm hiểu dân số, trình độ văn hóa truyền thống, điều trachỉ số mưu trí ( IQ ) của trẻ nhỏ, tìm hiểu năng lực tiêu thụ sản phẩm & hàng hóa … – Điều tra xã hội là tìm hiểu quan điểm, thái độ của quần chúng về một sự kiệnchính trị, xã hội, hiện tượng văn hóa, thị hiếu … Ví dụ : Điều tra nguyện vọng nghềnghiệp của người trẻ tuổi, tìm hiểu hay trưng cầu dân ý về bản hiến pháp mới … Điều tra là một giải pháp nghiên cứu khoa học quan trọng, một hoạt độngcó mục tiêu, có kế hoạch, được triển khai một cách thận trọng. c ) Phương pháp thực nghiệm khoa họcPhương pháp thực nghiệm là giải pháp tích lũy các sự kiện trong nhữngđiều kiện được tạo ra một cách đặc biệt quan trọng ( nhằm mục đích khẳng định chắc chắn những mối liên hệ dự kiếnsẽ có trong những điều kiện kèm theo mới ) bảo vệ việc tích cực, dữ thế chủ động tạo lại các hiệntượng, quy trình cần nghiên cứu. Nói cách khác : là dữ thế chủ động gây ra hiện tượngnghiên cứu trong những điều kiện kèm theo khống chế, nhờ đó hoàn toàn có thể lặp lại nhiều lần, táchbạch ra và đổi khác từng tác nhân ảnh hưởng tác động và nhìn nhận, đo đạc tỉ mỉ sự biến hóa củahiệu quả theo sự thay đổiố ảnh hưởng tác động. Phương pháp thực nghiệm khoa học là một trong các chiêu thức cơ bảntrong nghiên cứu khoa học, tuy nhiên chỉ được sử dụng khi và chỉ khi đặt ra bài toán làmsáng tỏ các mối liên hệ, sự phụ thuộc vào giữa các hiện tượng kỳ lạ nghiên cứu và sự thể hiệncác giả định, kiểm định các giả thuyết. Có 3 điều kiện kèm theo để sử dụng chiêu thức thực nghiệm khoa học : – Biết được đúng chuẩn những yếu tố nào tác động ảnh hưởng đến sự phát sinh và diễnbiến của các hiện tượng kỳ lạ nghiên cứu. – Xác định được những nguyên do của các hiện tượng kỳ lạ do vạch ra được cácđiều kiện tác động ảnh hưởng. – Lặp lại thí nghiệm nhiều lần tuỳ theo ý muốn và như vậy sẽ tích lũy đượcnhững tài liệu định lượng mà từ đó hoàn toàn có thể phán đoán về tính nổi bật hay ngẫu nhiêncủa các hiện tượng kỳ lạ nghiên cứu. Tính chất đặc trưng của chiêu thức thực nghiệm : – Cho năng lực nghiên cứu các hiện tượng kỳ lạ với việc xác lập đúng đắn các tácđộng quyết định hành động để làm nhanh lên hoặc chậm lại các quy trình. – Cho năng lực triển khai độc lập với môi trường tự nhiên ( thực nghiệm trong phòng thínghiệm ). – Việc bổ trợ nội dung của đối tượng người dùng triển khai bằng các thành phần mới đểlàm đổi khác sự tăng trưởng của đối tượng người tiêu dùng. – Kiểm định các giả thuyết giả định đã nêu ra và có những Tóm lại về chúng. – Giải thích các tác dụng nhờ các công cụ và phương tiện đi lại đặc biệt quan trọng. Yêu cầu cơ bản của việc sử dụng giải pháp thực nghiệm : – Không được cản trở hoặc đảo lộn tiến trình hoạt động giải trí thông thường của đốitượng nghiên cứu. – Chỉ được triển khai thực nghiệm khi có rất đầy đủ luận cứ : mục tiêu ; điều kiện kèm theo ( cơ sở lý luận, giả thuyết khoa học, đối tượng người tiêu dùng, tác động ảnh hưởng, giải pháp nghiên cứu, địabàn thực nghiệm, lựclượng tham gia thực nghiệm v.v … ) ; các bước thựcnghiệm ; xử lýkết quả ; nghiên cứu và phân tích lý luận ; khái quát hoá và hình thành tri thức mới … để tin tưởngrằng việc đưa ra những cái mới đã được kiểm tra vào quy trình nghiên cứu chỉ có thểgóp phần nâng cao hiệu suất cao và thành công xuất sắc của khu công trình nghiên cứu, ít ra là khônggây hậu quả xấu. Phương pháp thực nghiệm thường chia thành hai loại phương chính : – Thực nghiệm tự nhiên. – Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm. Ngoài ra do mục tiêu và mức độ nghiên cứu người ta còn chia thành các loạiphương pháp thực nghiệm khác như : – Thực nghiệm thăm dò. – Thực nghiệm xét nghiệm. – Thực nghiệm định tính. – Thực nghiệm định lượng … Thực nghiệm là giải pháp được coi là quan trọng nhất, trong nghiên cứukhoa học tân tiến. Trong lịch sử vẻ vang nhiều thế kỷ thực nghiệm có vai trò rất là quantrọng trong nghiên cứu khoa học. Ngay từ khi Open, thực nghiệm đã có ý nghĩanhư là một cuộc cách mạng trong nghiên cứu khoa học và được sử dụng triệt để trongnhiều nghành nghề dịch vụ khoa học, đặc biệt quan trọng là các khoa học tự nhiên. Thực nghiệm đã tạo ramột giải pháp nghiên cứu mới, giải pháp trọn vẹn dữ thế chủ động trong nghiêncứu khoa học. Ngày nay thực nghiệm đã được sử dụng cả trong nghành nghề dịch vụ nghiên cứu khoa họcxã hội, khoa học giáo dục và đem lại những tác dụng quan trọng. Phương pháp thực nghiệm có những đặc thù sau đây : – Thực nghiệm được triển khai xuất phát từ một giả thuyết hay phỏng đoán vềsự diễn biến của đối tượng người dùng. Trong thực nghiệm, người ta quan tâm đến một số ít biến sốquan trọng và bỏ một số ít biến số thứ yếu. Thực nghiệm được triển khai để khẳng địnhtính chân thực của phỏng đoán hay giả thuyết đã nêu. Thực nghiệm thành công xuất sắc sẽgóp phần tạo nên một triết lý mới. – Thực nghiệm được triển khai có kế hoạch như thể thực thi một chương trìnhkhoa học cần rất là chi tiết cụ thể và đúng mực. Kế hoạch thực nghiệm yên cầu phải miêutả mạng lưới hệ thống các biến số theo một chương trình. Trong một thực nghiệm, thường có 3 yếu tố đổi khác ( gọi là biến ) cần được xem xét trong tiến trình triển khai. Trong đó, biến do người nghiên cứu dữ thế chủ động biến hóa được gọi là biến độc lập ( independentvariable ), biến đổi khác do sự biến hóa của biến độc lập gây ra và được nhà khoa họcđo đạc và ghi lại sự đổi khác đó gọi là biến nhờ vào ( dependent variable ), biến cầngiữ ở trạng thái không thay đổi trong quy trình thực nghiệm được gọi là biến trấn áp ( controlled variable ). Trong nghiên cứu khoa học xã hội hay khoa học giáo dục, với mục tiêu kiểmtra giả thuyết, các đối tượng người tiêu dùng thực nghiệm được chia thành hai nhóm : nhóm thựcnghiệm và nhóm đối chứng ( còn gọi là nhóm kiểm chứng ). Hai nhóm này được lựachọn ngẫu nhiên, có số lượng và trình độ phát triền ngang nhau, điều đó được khẳngđịnh bằng việc kiểm tra chất lượng bắt đầu. Nhóm thực nghiệm chịu tác động ảnh hưởng bằngnhững biến số độc lập ( tác nhân thực nghiệm ) để xem xét sự diễn biến của biến phụthuộc, ( nếu sống sót mối quan hệ của biến nhờ vào vào biến độc lập ) có đúng với giảthuyết bắt đầu hay không ? Nhóm đối chứng cho diễn biến phát triền trọn vẹn tựnhiên không làm đổi khác bất kỳ điều gì khác thường ( nghĩa là không chịu tác độngcó chủ định trải qua biến hóa biến độc lập từ người nghiên cứu ). Đó là cơ sở đểkiểm tra những hiệu quả đổi khác của nhóm thực nghiệm. Nhờ những độc lạ của hainhóm mà ta hoàn toàn có thể khẳng định chắc chắn hay phủ định giả thuyết của thực nghiệm. Vì những đặc thù trên do đó việc tổ chức triển khai thực nghiệm trong nghiên cứukhoa học xã hội, khoa học giáo dục được thực thi như sau : – Xây dựng giả thuyết thực nghiệm trên cơ sở nghiên cứu và phân tích kỹ các biến số độc lậpmà sự biến hóa của nó hoàn toàn có thể làm biến hóa giá trị của các biến phụ thuộc vào. – Để bảo vệ tính phổ cập của tác dụng thực nghiệm, cần chọn các đối tượngthực nghiệm tiêu biểu vượt trội cho cả lớp đối tượng người dùng nghiên cứu. Các đối tượng người tiêu dùng này chia thànhhai nhóm : nhóm thực nghiệm và đối chứng tương tự nhau về số lượng và chấtlượng. Tổ chức kiểm tra nguồn vào trước thực nghiệm để khẳng định tính tương đươngđó. – Tiến hành các bước thực nghiệm thận trọng so với tiềm năng mà giả thuyết đãđề ra. Phải theo dõi sát sao toàn bộ những diễn biến một cách khách quan của hai nhómtrong từng quy trình tiến độ. – Các tác dụng thực nghiệm được giải quyết và xử lý bằng việc nghiên cứu và phân tích định tính, địnhlượng bằng thống kê toán học để khẳng định chắc chắn mối liên hệ của các biến số ( của biếnphụ thuộc vào biến độc lập ) trong nghiên cứu không phải ngẫu nhiên mà là mối liênhệ nhân quả xét theo thực chất của chúng. – Kết quả thực nghiệm cho ta cơ sở để khẳng định chắc chắn giả thuyết, từ đó đề xuấtnhững năng lực ứng dụng vào thực tiễn. d ) Phương pháp nghiên cứu và phân tích và tổng kết kinh nghiệmPhương pháp nghiên cứu và phân tích và tổng kết kinh nghiệm tay nghề là giải pháp nghiên cứuxem xét lại những thành quả của hoạt động giải trí thực tiễn trong quá khứ để rút ra nhữngkết luận hữu dụng cho khoa học. Tổng kết kinh nghiệm tay nghề thường hướng vào nghiên cứudiễn biến và nguyên do của các sự kiện và nghiên cứu các giải pháp thực tiễn đã ápdụng trong sản xuất hay trong hoạt động giải trí xã hội để tỉm ra các giải pháp hoàn hảo nhất nhất. Tổng kết kinh nghiệm tay nghề cũng còn nhằm mục đích phát hiện logic các bước tiến để giải mộtbài toán phát minh sáng tạo trên cơ sở nghiên cứu và phân tích một loạt các thông tin về một giải pháp, ví dụnhư giải pháp trong nghành kĩ thuật. Đây chính là con đường phát minh sáng tạo theo quy tắcalgorithm. e ) Phương pháp chuyên giaPhương pháp chuyên viên là giải pháp sử dụng trí tuệ của đội ngũ chuyêngia có trình độ cao của một chuyên ngành để xem xét, đánh giá và nhận định thực chất một sựkiện khoa học hay thực tiễn phức tạp, để tìm ra giải pháp tối ưu cho các sự kiện đóhay nghiên cứu và phân tích, nhìn nhận một mẫu sản phẩm khoa học. Ý kiến của từng chuyên viên bổ trợ cho nhau, kiểm tra lẫn nhau và các ý kiếngiống nhau của đa phần chuyên viên về một đánh giá và nhận định hay một giải pháp sẽ được coi làkết quả tư vấn, xem xét, nghiên cứu. Phương pháp chuyên viên là giải pháp rất kinh tế tài chính, tiết kiệm chi phí thời hạn, sứclực và kinh tế tài chính. Tuy nhiên nó hầu hết dựa trên cơ sở trực cảm hay kinh nghiệm tay nghề củachuyên gia, vì thế nên sử dụng trong trường hợp cần tư vấn và khi các phương phápkhác không có điều kiện kèm theo triển khai hay không hề thực thi được. 2.4. XÂY DỰNG MỘT ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌCNghiên cứu khoa học là hoạt động giải trí mày mò nhằm mục đích tìm ra những điều chưa biếtvề thực chất của sự vật, có ý nghĩa đem lại quyền lợi cho xã hội, đồng thời góp thêm phần chosự tăng trưởng nhận thức khoa học. Để đạt được điều đó, người làm khoa học cần cónăng lực kiến thiết xây dựng đề cương nghiên cứu khoa học được hội đồng các nhà khoa họcvà xã hội đồng ý. Năng lực đó, trước hết, được bộc lộ từng bước trải qua cáchoạt động như : xác lập vấn đề khoa học, xác lập tên đề tài nghiên cứu, xác địnhmục tiêu nghiên cứu, xác lập nội dung và chiêu thức nghiên cứu, lập kế hoạchnghiên cứu, dự báo hiệu quả nghiên cứu và năng lực nghiên cứu và phân tích, lý giải các kết quảnghiên cứu. 2.4.1. Xác định vấn đề khoa họcĐể thiết kế xây dựng một đề cương nghiên cứu, người nghiên cứu khoa học cần tìm ramột cách rõ rằng vấn đề khoa học ( Theoretical perspectives ) của đề tài nghiêncứu. Luận điểm khoa học được kiến thiết xây dựng dựa trên nền tảng của triết lý khoa học, trong đó bảo vệ tính “ khách quan ” ( Objectiveness ) trong khoa học được cho lànguyên tắc cơ bản của nghiên cứu. Luận điểm khoa học được kiến thiết xây dựng dựa trênnhững tiêu chuẩn hầu hết và đơn cử như : – Giả thuyết khoa học ( scientific / research hypothesis ) – là những nhận định và đánh giá sơbộ, giả định về thực chất sự vật nhằm mục đích chứng tỏ cho những điều cần nghiên cứu. – Cơ sở kim chỉ nan khoa học – là những kim chỉ nan khoa học mà các giả thừa kế từnhững nghiên cứu. – Các luận cứ khoa học ( evidence ) – hoàn toàn có thể là những số liệu tích lũy qua quátrình thực nghiệm, hay là các dẫn chứng hình ảnh, âm thanh xác nhận, …. – Xác định chiêu thức nghiên cứu ( research methodology ) tương thích – đảmbảo cho các luận cứ khoa học mà tác giả đưa ra là trọn vẹn thuyết phục. – Các lập luận dựa trên cơ sở kim chỉ nan, thực nghiệm và so sánh với các kết quảnghiên cứu trước đó, qua đó hoàn toàn có thể chứng tỏ các luận cứ đã đưa ra là hoàn toànđúng đắn. Xác định vấn đề khoa học là việc làm cần nhiều kinh nghiệm tay nghề và kiến thứckhoa học, biểu lộ kinh nghiệm tay nghề và năng lượng phát minh sáng tạo của người nghiên cứu. Để làmđược điều đó, người nghiên cứu phải luôn tự đặt cho mình những câu hỏi, tâm lý vàtrả lời, ví dụ như : Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài mà mình địnhthực hiện là gì ? Đề tài có mang tính cấp thiết không ? Có đủ điều kiện kèm theo bảo vệ choviệc hoàn thành xong đề tài không ? Đề tài có tương thích với điều kiện kèm theo về cơ sở vật chấtkhông ? Đề tài có tương thích với sở trường thích nghi không ? Do vậy, giáo viên, với sự trợ giúp của các nhà khoa học đóng vai trò quan trọngtrong việc trợ giúp học viên để biến các ý tưởng sáng tạo khởi đầu của học viên được hìnhthành trong đời sống thành các luận điển khoa học, từ đó kiến thiết xây dựng thành những đềtài / dự án Bất Động Sản nghiên cứu khoa học. 2.4.2. Xây dựng đề cương nghiên cứuMột đề cương nghiên cứu gồm các phần hầu hết sau : a. Tên dự án Bất Động Sản / đề tài khoa họcTên đề tài phản ánh cô đọng nội dung nghiên cứu và ý tưởng sáng tạo triển khai của đềtài. Có nhiều cách đặt tên đề tài. Những thông tin được lựa chọn để đặt tên cho đề tàithường là : nội dung chính của đề tài ( 1 ), tiềm năng nghiên cứu ( 2 ), giải pháp thựchiện đề tài ( 3 ), khu vực, thiên nhiên và môi trường hoặc khoanh vùng phạm vi triển khai đề tài ( 4 ). Ví dụ : Sử dụng công nghệ tiên tiến gen để tạo giống lúa mới có năng lực chịu mặnnhằm nâng cao hiệu suất lúa tại vùng đồng bằng ven biển miền Trung Nước Ta. Tên dự án Bất Động Sản trên gồm có các thành phần : ( 1 ) : tạo giống lúa mới có năng lực chịu mặn ( 2 ) : nâng cao hiệu suất lúa ( 3 ) : công nghệ tiên tiến gen ( 4 ) : vùng đồng bằng ven biển miền Trung Việt NamTuy nhiên, tên đề tài không thiết yếu quá dài và khá đầy đủ các thành phần mà tuântheo nguyên tắc “ ít chữ nhất nhưng mang nhiều thông tin nhất ”, miễn sao thể hiệnđược điều cốt lõi nhất mà đề tài cần nhất mạnh. Tên dự án Bất Động Sản cần rõ ràng, không hề hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và rất quantrọng là chỉ nằm trong số lượng giới hạn nghiên cứu của đề tài. Ví dụ, khi đề tài chỉ “ nghiêncứu năng lực chịu mặn của lúa để nâng cao hiệu suất ” thì không nên đặt tên mộtcách chung chung là “ Nghiên cứu nâng cao hiệu suất lúa ” mà cần xác lập rõ nộidung nghiên cứu ở đây chỉ là với giống lúa chịu mặn, và xác lập rõ ràng giới hạncủa khu vực nghiên cứu chỉ là ở miền Trung Nước Ta, để phân biệt với các vùngkhác. Không nên đặt tên đề tài với số lượng giới hạn khoanh vùng phạm vi nghiên cứu quá rộng, vượt quákhả năng thực thi. Tên dự án Bất Động Sản khoa học công nghệ tiên tiến khi đem ra trình diễn trước hội đồng khoa họcvà tham gia các cuộc thi khoa học cần có hiệu quả rõ ràng. Do vậy, những cụm từ thểhiện sự mở màn như : “ Thử bàn về …. ”, “ Bước đầu … .. ”, “ Một vài tâm lý về … .. ”, “ Khảo sát … .. ” cần nên tránh. b. Mục tiêu nghiên cứuMục tiêu nghiên cứu cần được làm rõ trong nghiên cứu khoa học, là cái đích vềnội dung mà người nghiên cứu đặt ra để khuynh hướng và nỗ lực đạt tới. Mục tiêu củađề tài xuất phát từ nguyên do chọn đề tài, vấn đáp câu hỏi “ Tại sao lại chọn đề tài này đểnghiên cứu ? ”, trong đó có ý nghĩa về mặt triết lý và ý nghĩa về mặt thực tiễn. Mỗi đề tài nghiên cứu có tiềm năng khái quát – gọi là “ Mục tiêu chung ” hay “ Mục đích ” ( Aims ) và “ Mục tiêu đơn cử ” ( Objectives ). – Mục tiêu chung vấn đáp thắc mắc “ Nghiên cứu để làm gì ? ” – biểu lộ ý nghĩakhái quát của đề tài khoa học. Cách biểu lộ tiềm năng chung thường đi liền với các cụm từ chỉ mục tiêu củanghiên cứu như : nghiên cứu nhằm mục đích … ; nghiên cứu là để …. ; nghiên cứu góp thêm phần …., Ví dụ : tiềm năng chung của đề tài về cây lúa là nhằm mục đích tìm ra giống lúa chịu mặncó hiệu suất cao. – Mục tiêu đơn cử vấn đáp thắc mắc : Nghiên cứu đạt được đến mức nào ? – thể hiệndự định tác dụng mà đề tài cần đạt được. Ví dụ : tiềm năng đơn cử của đề tài về cây lúa là nâng cao hiệu suất lúa lên 20 %, 30 % hay lên gấp đôi, …. Yêu cầu của tiềm năng nghiên cứu là phải : đơn cử ( Specific ), đo được ( Measurable ), khả thi ( Achievable ), hiện thực ( Realistic ) và có thời hạn ( Timebound ). Theo vần âm đứng đầu trong tiếng Anh, hoàn toàn có thể viết tắt nhu yếu xác lập mục tiêunghiên cứu là : SMART.Ở những đề tài lớn mang nhiều ý nghĩa, các tiềm năng chung kết hợp với cácmục tiêu đơn cử thành một “ Cây tiềm năng ” với các Lever cao thấp khác nhau ( Mụctiêu cấp I, tiềm năng cấp II, tiềm năng cấp III, …. ). c. Giới hạn khoanh vùng phạm vi nghiên cứuGiới hạn khoanh vùng phạm vi nghiên cứu của một đề tài khoa học bộc lộ quy mô của đềtài, phụ thuộc vào vào nguồn lực, quỹ thời hạn và năng lực nghiên cứu của tác giả. Giới hạn khoanh vùng phạm vi nghiên cứu xác lập số lượng mẫu khảo sát, số lượng giới hạn về thờigian nghiên cứu, số lượng giới hạn về tiềm năng và nội dung nghiên cứu. Trong điều kiện kèm theo khảnăng nghiên cứu chỉ có hạn, số lượng giới hạn khoanh vùng phạm vi nghiên cứu cũng hoàn toàn có thể xác lập rõgiới hạn về phương tiện đi lại và giải pháp nghiên cứu. Khi đề cương của một đề tài khoa học nêu được một cách rõ ràng giới hạnphạm vi nghiên cứu sẽ giúp cho hội đồng khoa học nhìn nhận đúng mức độ đóng gópcủa đề tài và năng lượng nghiên cứu của tác giả. d. Nội dung nghiên cứuNội dung nghiên cứu, hay “ vấn đề nghiên cứu ” ( Research problem ) là nhữngnội dung khoa học mà người nghiên cứu cần thực thi để đạt được tiềm năng. Khácvới tiềm năng nghiên cứu ( vấn đáp thắc mắc “ nghiên cứu để làm gì ? ” ) thì nội dungnghiên cứu vấn đáp thắc mắc : Nghiên cứu cái gì ? .