Vai trò của tài nguyên thiên nhiên đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

TCCTThS. TRẦN BÁ THỌ (Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh)

TÓM TẮT:

Tăng trưởng kinh tế luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu đối với chính phủ các quốc gia trên thế giới. Đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ tạo tiền đề thúc đẩy phát triển đất nước về mọi mặt như tăng vốn tích lũy để đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao mức sống của người dân, cải thiện các vấn đề phúc lợi xã hội như văn hóa, giáo dục, y tế và xóa đói giảm nghèo.

Việc xác lập những tác nhân tác động ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của vương quốc nói chung và tác nhân tài nguyên thiên nhiên nói riêng đóng một vai trò rất là quan trọng trong công cuộc phát triển quốc gia. Bài viết nghiên cứu và phân tích vai trò của tài nguyên thiên nhiên so với tăng trưởng kinh tế ở Nước Ta, từ đó yêu cầu giải pháp hầu hết nhằm mục đích thôi thúc tăng trưởng kinh tế, triển khai thành công xuất sắc sự nghiệp công nghiệp hóa, văn minh hóa quốc gia .

Từ khóa: Kinh tế Việt Nam, tăng trưởng kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, giải pháp.

1. Giới thiệu

Tăng trưởng kinh tế đã trở thành mục tiêu hàng đầu của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, Việt Nam đã tăng trưởng tương đối nhanh, hiện trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng không đi cùng quy mô. Dù đứng ở top đầu về tốc độ tăng trưởng, nhưng quy mô nền kinh tế của Việt Nam vẫn còn nhỏ bé, khiêm tốn so với một số quốc gia trong khu vực (GDP khoảng 262 tỷ USD năm 2019).  Để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng trong dài hạn, việc cần làm lúc này là nhìn lại những chặng đường phát triển sau 30 năm đổi mới, tìm ra những nhân tố quan trọng, đặc biệt là yếu tố tài nguyên thiên nhiên, để đề ra các giải pháp thiết thực nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bài viết dựa vào số liệu thống kê về GDP, tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và sử dụng các phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích đánh giá để thực hiện nội dung này.

2. Cơ sở lý thuyết tăng trưởng kinh tế

2.1. Mô hình tăng trưởng kinh tế của Paul A. Samuelson

Gần đây, một phe phái kinh tế mới sinh ra đã ủng hộ thiết kế xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp có sự phối hợp hài hòa và hợp lý giữa “ bàn tay vô hình dung ” và “ bàn tay hữu hình ”. Thực chất, đó là sự tích hợp của học thuyết kinh tế Tân cổ xưa và học thuyết kinh tế của phe phái Keynes với những phát triển quan trọng .
Sản lượng của nền kinh tế được xác lập bằng hàm sản lượng : Y = f ( L, K, R, T )
Trong đó : L ( Nguồn nhân lực ) ; K ( Nguồn vốn ) ; R ( Nguồn tài nguyên ) ; T ( Công nghệ ) .
Các phe phái kinh tế khác nhau sẽ có những quy mô tăng trưởng kinh tế khác nhau. Trong những quy mô tăng trưởng kinh tế, những yếu tố nguồn vào đóng vai trò quan trọng để ngày càng tăng sản lượng. Các phe phái kinh tế khác nhau đều nhấn mạnh vấn đề yếu tố này hay yếu tố khác, nhưng nhìn chung có một số ít yếu tố quan trọng, như : vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên, khoa học – công nghệ .

2.2. Tài nguyên thiên nhiên đối với tăng trưởng kinh tế

Tài nguyên thiên nhiên: Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, được cung cấp bởi tự nhiên như đất đai, sông ngòi và các mỏ khoáng sản. Tài nguyên thiên nhiên có 2 dạng: tái tạo được và không tái tạo được. Ví dụ, rừng là tài nguyên tái tạo, dầu mỏ là tài nguyên không tái tạo được. Sự khác biệt về tài nguyên thiên nhiên giải thích một số khác biệt về mức sống của các quốc gia. Quốc gia nào có nguồn tài nguyên dồi dào thường có mức sống cao hơn những quốc gia có ít nguồn tài nguyên.

Các nước giàu tài nguyên thiên nhiên thường đưa ra những chủ trương mê hoặc để khai thác nguồn tài nguyên nhằm mục đích Giao hàng tiềm năng tăng trưởng kinh tế. Theo triết lý lợi thế so sánh, những nước thường xuất khẩu những nguồn tài nguyên có lợi thế so sánh để thu ngoại tệ về ship hàng cho phát triển kinh tế .
Việc khai thác tài nguyên thiên nhiên còn tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động, đặc biệt quan trọng ở những vùng xa xôi hẻo lánh, cải tổ thu nhập cho người dân .
Tuy nhiên, việc khai thác tài nguyên, đặc biệt quan trọng là nguồn tài nguyên không tái tạo sẽ làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên mau hết sạch, ô nhiễm môi trường tự nhiên nước, ô nhiễm không khí, làm đổi khác môi trường sinh thái của những sinh vật dưới đáy biển .
Chính thế cho nên, những nhà kinh tế khuyến nghị những nước cần phải lập kế hoạch nhìn nhận những ảnh hưởng tác động môi trường tự nhiên, quản trị môi trường tự nhiên, quản trị những nguồn tài nguyên thiên nhiên để khai thác hiệu suất cao và bền vững và kiên cố .

3. Tài nguyên thiên nhiên đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ năm 1986 đến nay

3.1. Tình hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ năm 1986 đến nay (Hình 1)

Hình 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam qua các năm

Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam qua các năm   (Nguồn: Tổng cục Thống kê)

Tăng trưởng kinh tế của Nước Ta từ năm 1986 đến nay được chia làm 3 tiến trình .

 *Giai đoạn 1986 — 2000: Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986 – 1990), Việt Nam tiến hành một số cải cách về kinh tế như triển khai 3 chương trình kinh tế lớn: Lương thực — thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Các hình thức chia cắt thị trường đã được xóa bỏ dần, kế hoạch kinh tế của Nhà nước được thực hiện trên cơ sở hạch toán. Đặc biệt các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế tập thể được thừa nhận và bắt đầu được tạo điều kiện hoạt động. Nền kinh tế dần được thị trường hóa và có chuyển biến tốt.

* Giai đoạn 1990 — 2000: Dù bước đầu còn khó khăn, nhưng nhờ triển khai mạnh mẽ đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, Việt Nam từng bước đi lên, đẩy mạnh theo công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhờ đó, nền kinh tế Việt Nam đạt được những thành tựu nhất định. GDP tăng trưởng liên tục từ năm 1990 đến năm 2000 với mức tăng trưởng bình quân 7,35%/năm. Trong vòng 10 năm, quy mô GDP tăng từ 6,5 tỷ USD lên 33,64 tỷ USD (gấp 5,18 lần). Bên cạnh việc đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, Việt Nam còn thành công trong việc kiềm chế lạm phát từ 3 con số, giảm xuống còn 12,7% trong năm 1995 và 4,5% năm 1996. Một điều may mắn, năm 1997, hệ thống tài chính của Việt Nam chưa kết nối nhiều với hệ thống tài chính thế giới, do đó không bị ảnh hưởng nhiều bởi cuộc khủng hoảng tài chính từ Thái Lan lan sang các nước Đông Á. Trong giai đoạn này, Việt Nam bắt đầu hội nhập với các tổ chức nước ngoài như gia nhập ASEAN.

* Giai đoạn 2000 – 2006 : Đây là quá trình Nước Ta tích cực hội nhập với những tổ chức triển khai kinh tế quốc tế. Năm 2001, Nước Ta và Hoa Kỳ trải qua Hiệp định Thương mại Việt — Mỹ, nhờ đó Nước Ta có thêm thời cơ tiếp cận nguồn kinh tế tài chính, phương pháp quản trị văn minh, thông tin thị trường và công nghệ tiên tiến tiên tiến và phát triển. Trong 5 năm ( 2001 — 2005 ), từ chỗ chỉ có 2 thành phần : kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, với 2 hình thức tổ chức triển khai sản xuất, kinh doanh thương mại là doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã kiểu cũ, nền kinh tế nước ta đã gồm có nhiều thành phần kinh tế khác nhau với nhiều mô hình tổ chức triển khai sản xuất kinh doanh thương mại rất phong phú, phong phú và đa dạng cả về quy mô, trình độ lẫn quan hệ sản xuất. Chính những nguyên do này đã thôi thúc kinh tế Nước Ta đạt vận tốc tăng trưởng kinh tế khá cao, luôn duy trì mức tăng trưởng từ 7 – 8 % mỗi năm. GDP từ 33,64 tỷ USD năm 2000 tăng lên 66,37 tỷ USD năm 2006 .
Tuy nhiên, bên cạnh những quyết định hành động thay đổi tích cực về kinh tế, Nước Ta còn 1 số ít mặt còn sống sót như chậm bãi bỏ những rào cản kinh tế và sự bảo lãnh so với những doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu suất cao, dẫn đến sản phẩm & hàng hóa trong nước không có năng lực cạnh tranh đối đầu. Hậu quả là chậm hội nhập nền công nghiệp trong nước với nền công nghiệp quốc tế .
Giai đoạn từ năm 2006 đến nay : Trong năm 2006, nhiều tập đoàn lớn lớn được xây dựng mới, như Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Công nghiệp Cao su … Tuy nhiên, trong số 40 tập đoàn lớn, có một số ít tập đoàn lớn do sai lầm đáng tiếc trong quản trị, nên đã lâm vào thực trạng khủng hoảng cục bộ, gây hậu quả rất lớn. Năm 2007, tăng trưởng kinh tế đạt 8,5 %, mức cao nhất kể từ năm 1997, nhưng sau đó bị chững lại bất thần, chỉ đạt 5 – 6 % so với tiến trình trước là 7 – 8 % .
Nguyên nhân là do khủng hoảng cục bộ kinh tế tài chính toàn thế giới trong năm 2008 đã đẩy kinh tế quốc tế vào thực trạng suy thoái trầm trọng, kim ngạch xuất nhập khẩu, lôi cuốn vốn góp vốn đầu tư trong nước và quốc tế bị tác động ảnh hưởng xấu đi. Thêm vào đó, thiên tai, dịch bệnh xảy ra liên tục trên địa phận cả nước đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư. Đứng trước tình hình không thuận tiện đó, Đảng và nhà nước đã phát hành nhiều nghị quyết nhằm mục đích ngăn ngừa thực trạng suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo vệ phúc lợi xã hội .

Tháng 5/2009, Chính phủ tung ra gói kích thích kinh tế 143 ngàn tỷ VND (tương đương 8 tỷ USD), sau đó tăng lên 160 ngàn tỷ VND (tương đương 9 tỷ USD). Gói kích cầu này đã góp phần giúp GDP tăng trưởng, tuy nhiên cũng để lại nhiều hệ lụy như: bong bong chứng khoán và bất động sản, lạm phát tăng cao (trên 20% năm 2011), thâm hụt ngân sách nặng dẫn tới nợ nhà nước tăng cao, gây ra bất ổn tỷ giá và bất ổn kinh tế vĩ mô.

Dưới sự quản lý nhạy bén, và kinh khủng của Đảng, nhà nước ; sự nỗ lực và dữ thế chủ động khắc phục khó khăn vất vả, sự phát minh sáng tạo của những Bộ, ngành, địa phương, những tập đoàn lớn kinh tế, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và của toàn dân nên Nước Ta đã ngăn ngừa được đà suy giảm, vận tốc tăng trưởng kinh tế ngày càng được hồi sinh .
Năm 2006, GDP đạt 66,37 tỷ USD, đến năm 2019 đạt 262 tỷ USD, hiệu suất tổng hợp ( TFP ) tăng dần, từ quá trình 2006 — 2010 đạt 17,2 %, đến quy trình tiến độ 2011 – năm ngoái đạt 33,58 %, đến quy trình tiến độ năm nay – 2018 đạt 43,29 %. Kế đến là sự vận động và di chuyển cơ cấu tổ chức của những thành phần kinh tế, khuynh hướng chung là giảm tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước, tăng tỷ trọng khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn góp vốn đầu tư quốc tế. Cụ thể, góp phần vào GDP của khu vực kinh tế nhà nước giảm từ 29,34 % năm 2010 xuống còn 28,69 % năm năm ngoái, khu vực kinh tế tư nhân tăng từ 6,9 % năm 2010 lên 18,07 % năm năm ngoái và 42,1 % vào năm 2018 .
Ngoài ra, còn phải kể đến độ mở của nền kinh tế, Nước Ta không ngừng lan rộng ra những quan hệ kinh tế song phương, tiểu vùng, vùng, liên vùng và tiến tới tham gia link kinh tế toàn thế giới. Tính đến nay, Nước Ta đã ký kết và tham gia 11 hiệp định thương mại tự do ( FTA ) khu vực và song phương, trong đó có 6 FTA trong khuôn khổ ASEAN. Tháng 11 / 2017, Nước Ta đã cùng những nước đạt thỏa thuận hợp tác cơ bản cho Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương ( CPTPP ), chính thức ký kết vào tháng 3/2018. Cho đến cuối năm 2018, Nước Ta có quan hệ kinh tế thương mại với hơn 220 vương quốc và vùng chủ quyền lãnh thổ, lôi cuốn trên 300 tỷ USD góp vốn đầu tư quốc tế ( FDI ). Số đối tác chính thức công nhận quy định kinh tế thị trường của nước ta tăng lên 69 .

3.2. Tài nguyên thiên nhiên ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Tăng trưởng kinh tế là quy mô sản xuất của nền kinh tế ngày càng lớn hơn, khối lượng mẫu sản phẩm tạo ra của thời kỳ sau nhiều hơn thời kỳ trước, muốn được như vậy thì những yếu tố nguồn vào của quy trình sản xuất phải có sự ngày càng tăng về số lượng sử dụng .
Nguồn tài nguyên thiên nhiên là một trong những tác nhân sản xuất cổ xưa, những nguồn tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, tài nguyên đặc biệt quan trọng là dầu mỏ, rừng và nguồn nước. Biển Nước Ta phong phú những chủng loài có chất lượng cao, thêm vào đó trữ lượng cá rất lớn. Việt Nam cũng có tới ¾ diện tích quy hoạnh là đồi núi, diện tích quy hoạnh rừng bao trùm hơn 30 % .
Mặc dù diện tích quy hoạnh đất liền chỉ chiếm 1,35 % diện tích quy hoạnh quốc tế, nhưng Nước Ta được thiên nhiên khuyến mại với mạng lưới hệ thống sông ngòi chằng chịt, nguồn nước ngọt của Nước Ta chiếm 2 % tổng lượng dòng chảy của những sông trên quốc tế. Ngoài ra, Nước Ta còn có những mỏ tài nguyên có giá trị trải dài từ Bắc đến Nam, với nguồn dầu hỏa và khí đốt dồi dào, nguồn tài nguyên du lịch rất phong phú và đa dạng phong phú lôi cuốn phần đông hành khách .
Với nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng chủng loại phong phú như vậy, Nước Ta có không thiếu điều kiện kèm theo để thôi thúc tăng trưởng kinh tế. . Điều quan trọng là làm thế nào để tài nguyên thiên nhiên được khai thác một cách hài hòa và hợp lý .. Trên trong thực tiễn, việc khai thác tài nguyên của Nước Ta hiện còn nhiều chưa ổn, như : thực trạng sử dụng đất tăng mạnh, tài nguyên nước ngày càng bị lạm dụng, rừng tự nhiên bị khai thác lấy gỗ, trữ lượng cá cho hoạt động giải trí đánh bắt cá bị hết sạch và tài nguyên tài nguyên ngày càng bị khai thác nhiều hơn .
Nguồn tài nguyên thiên nhiên của Nước Ta lúc bấy giờ đang bị thu hẹp cả về số lượng và chất lượng. Các yếu tố như sự ngày càng tăng dân số, vận tốc đô thị hóa, công nghiệp hóa đang tích hợp với nhau dẫn đến ngày càng tăng ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí đô thị, kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên. Chính sự suy yếu những nguồn tài nguyên đã rình rập đe dọa sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Nghiêm trọng nhất là những yếu tố ô nhiễm tại TP. Hồ Chí Minh, TP. Thành Phố Hà Nội và những vùng xung quanh 2 thành phố này. Nguyên nhân của tổng thể những hiện tượng kỳ lạ trên chính là việc quản trị và khai thác tài nguyên thiên nhiên chưa hài hòa và hợp lý và còn tiêu tốn lãng phí tài nguyên thiên nhiên .

3.3. Giải pháp về tài nguyên thiên nhiên đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam

 Để phát triển bền vững cần đảm bảo các tài nguyên có thể tái tạo được khai thác ở mức thích hợp. Chính phủ và các ngành chức năng đã đưa ra một số giải pháp trong việc quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên hợp lý nhằm tăng trưởng kinh tế bền vững.

Thứ nhất, tạo cải tiến vượt bậc trong quản trị, sử dụng tài nguyên. Xây dựng chính sách khuyến khích việc tập trung chuyên sâu, tích tụ ruộng đất ; thiết lập khung pháp lý cho thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp về quyền sử dụng đất, nhất là với đất nông nghiệp. Tiếp tục điều tra và nghiên cứu thay đổi công tác làm việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Tăng cường công tác làm việc chỉ huy, kiểm tra của những bộ, ngành so với việc lập, phê duyệt và tổ chức triển khai thực thi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo pháp luật .
Thứ hai, so với tài nguyên nước, cần sớm phát hành những pháp luật đơn cử về sử dụng nước tiết kiệm chi phí, hiệu suất cao, đặc biệt quan trọng tại những vùng khan hiếm nước để góp thêm phần bảo vệ bảo mật an ninh nguồn nước. Tăng cường công tác làm việc tìm hiểu cơ bản, lập và tiến hành kế hoạch thực thi Chiến lược vương quốc về tài nguyên nước trong thời gian ngắn và dài hạn, quy hoạch tài nguyên nước của cả nước, những lưu vực sông. Kiểm soát ngặt nghèo những hoạt động giải trí gây ô nhiễm, xả nước thải vào nguồn nước. Khẩn trương đề xuất kiến nghị với nhà nước để đàm phán thiết lập chính sách san sẻ nguồn nước liên vương quốc. nhà nước cần có những chủ trương khuyến khích triển khai đa dạng hóa nguồn nước như khử muối để sử dụng nước, tái chế nước thải hoạt động và sinh hoạt …
Thứ ba, so với tài nguyên tài nguyên. Tập trung tìm hiểu, nhìn nhận triển vọng tài nguyên ở những độ sâu khác nhau Giao hàng thăm dò, khai thác, chế biến và dự trữ vương quốc. Tăng cường trấn áp và sử dụng có hiệu suất cao sản lượng khai thác ; hạn chế và tiến tới chấm hết thực trạng khai thác tài nguyên trái phép. Song song đó, cơ quan chính phủ cần phối hợp những chủ trương thôi thúc khoa học – công nghệ phát triển nhằm mục đích sử dụng những nguồn tài nguyên thô tạo ra những loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, giá trị lớn .
Thứ tư, tổ chức triển khai tốt việc thi hành Luật Tài nguyên, môi trường tự nhiên biển và hải đảo. Tăng cường tìm hiểu cơ bản tài nguyên vùng biển sâu. nhà nước cần kiến thiết xây dựng những kế hoạch thăm dò, khai thác tài nguyên biển một cách hài hòa và hợp lý và khoa học nhằm mục đích duy trì tài nguyên biển đa dạng và phong phú, phong phú và lâu dài hơn .
Thứ năm, cần tăng cường hơn thế nữa công tác làm việc thanh tra kiểm tra, qua đó kịp thời phát hiện và giải quyết và xử lý vi phạm. Nâng cao năng lượng công tác làm việc phòng chống những hành vi gây ô nhiễm thiên nhiên và môi trường ; Xử lý nghiêm những hoạt động giải trí khai thác tài nguyên thiên nhiên làm ô nhiễm môi trường sinh thái. Ngoài ra, nhà nước cần nhất quyết không đồng ý chấp thuận góp vốn đầu tư, cấp phép, những dự án Bất Động Sản không bảo vệ tiêu chuẩn có rủi ro tiềm ẩn gây ô nhiễm môi trường tự nhiên .

4. Kết luận

Việc xác lập được những tác nhân tác động ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng. Nền kinh tế có tăng trưởng bền vững và kiên cố hay không, ngoài việc nhờ vào vào đường lối phát triển kinh tế đúng đắn của Đảng và nhà nước, còn nhờ vào vào những yếu tố như nguồn vốn góp vốn đầu tư, nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên thiên nhiên, trình độ khoa học – công nghệ, trong đó yếu tố tài nguyên thiên nhiên giữ vai trò rất quan trọng. Sự chỉ huy đúng đắn của Đảng và nhà nước về việc khai thác và sử dụng có hiệu suất cao nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ góp thêm phần tạo điều kiện kèm theo thuận tiện thực thi tăng trưởng kinh tế không thay đổi và vững chắc .
Tuy nhiên, việc điều tra và nghiên cứu tình hình tăng trưởng kinh tế Nước Ta từ 1986 đến nay, vai trò và giải pháp về tài nguyên thiên nhiên để thôi thúc tăng trưởng kinh tế Nước Ta là một yếu tố lớn, yên cầu phải điều tra và nghiên cứu sâu hơn cho từng yếu tố đơn cử. Nghiên cứu này gợi mở cho những nghiên cứu và điều tra sau nhằm mục đích đi sâu hơn với từng giải pháp đơn cử về yếu tố này .

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. David Begg – Stanley Fischer – Rudiger Dornbusch (1992). Economics, Nhà xuất bản Giáo dục.
  2. N. Gregory Mankiw (2014). Kinh tế học vĩ mô, Cengage Learning.
  3. Trần Thọ Đạt (2005). Các mô hình tăng trưởng kinh tế, NXB Thống kê.
  4. Nguyễn Như Ý, Trần Thị Bích Dung (2017). Kinh tế Vĩ mô, NXB Thống kê.
  5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016).
  6. Tổng cục Thống kê (2019).
  7. Tradingeconomic.com; World bank (2018).
  8. VCCI (2015).
  9. Việt Nam report (2014).

Website:

  1. Đỗ Thị Thảo, Nguyễn Thị Phong Lan (2013). Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay, truy cập ngày 1/11/2017, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Viet-nam-tren-duong-doi-moi/2013/21694/Nhung-thanh-tuu-co-ban-ve-phat-trien-kinh-te-xa.aspx.
  2. Quản lý tài nguyên thiên nhiên để tăng trưởng bền vững, truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2017, https://www.baomoi.com/quan-ly-tai-nguyen-thien-nhien-de-tang-truong-ben-vung/c/6340465.epi
  3. Tài nguyên thiên nhiên Việt Nam, truy cập 20/7/2017, http://www.vfej.vn/vn/663n/tai-nguyen-thien-nhien-viet-nam.html.

THE ROLE OF NATURAL RESOURCES IN THE ECONOMIC GROWTH OF VIETNAM

Master. TRAN BA THO

University of Economics Ho Chi Minh City

ABSTRACT:

Economic growth is always a matter of concern to governments around the world. Achieving a high economic growth rate would promote the national development in all aspects from increasing accumulated capital for production expansion, improving people’s living standards to handling public and welfare issues including culture, education, health and poverty reduction. This study is to identify factors affecting the national economic growth plays a very important role in the development of Vietnam, thereby proposing solutions to promote the country’s economic growth, successful strengthening the industrialization and modernization processes .

Keywords: Vietnam’s economy, economic growth, natural resources, solution.