TRÌNH TỰ LOGIC CỦA NGHIÊN CỨU KHOA HỌC – Tài liệu text – Kiến Thức Cho Người lao Động Việt Nam
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản khá đầy đủ của tài liệu tại đây ( 468.6 KB, 75 trang )
2. Xác định nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu là một chủ đề mà người nghiên cứu (hoặc nhóm nghiên
cứu) thực hiện. Nhiệm vụ nghiên cứu có thể xuất hiện trước hoặc sau vấn đề nghiên
cứu.
Có nhiều nguồn nhiệm vụ:
Chủ trương phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia được ghi trong các văn
kiện chính thức của các cơ quan có thẩm quyền. Từ chủ trương phát triển kinh tế – xã
hội, mà người nghiên cứu đi sâu phân tích để phát hiện “vấn đề nghiên cứu”
Nhiệm vụ được giao từ cơ quan cấp trên của cá nhân hoặc tổ chức nghiên cứu.
“Cấp trên giao” là xuất phát từ nhu cầu kinh tế – xã hội. Căn cứ nhiệm vụ cấp trên
giao, người nghiên cứu mới phân tích xem, “Vấn đề nghiên cứu” nằm ở đâu?
Nhiệm vụ được nhận từ hợp đồng với các đối tác. Đối tác có thể là các doanh
nghiệp hoặc tổ chức xã hội hoặc cơ quan chính phủ. Thông thường, các đối tác có thể
chủ động nêu ra các “vấn đề nghiên cứu” để ký hợp đồng, song cũng có thể họ chỉ
quan tâm đến nhu cầu nghiên cứu của họ, mà không hề quan tâm tới cái “vấn đề
nghiên cứu” theo nghĩa khoa học mà người nghiên cứu sẽ phải phân tích sau này.
Nhiệm vụ do người nghiên cứu tự đặt cho mình xuất phát từ ý tưởng khoa học
của bản thân người nghiên cứu.
Việc lựa chọn đề tài có thể dựa trên những căn cứ được xem xét theo các cấp độ
sau:
1) Đề tài có ý nghĩa khoa học hay không?
2) Đề tài có mang một ý nghĩa thực tiễn nào không?
3) Đề tài có cấp thiết phải nghiên cứu hay không?
4) Có đủ điều kiện đảm bảo cho việc hoàn thành đề tài không?
5) Và đề tài có phù hợp sở thích không?
3. Mục tiêu nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu là những nội dung cần được xem xét và làm rõ trong
nghiên cứu. Mục tiêu trả lời câu hỏi “Nghiên cứu cái gì?”
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu luôn được giới hạn trong một khuôn khổ nhất định:
1) Phạm vi về nội dung nghiên cứu.
2) Phạm vi về không gian của sự vật cần quan tâm trong nghiên cứu, cụ thể ở
đây là giới hạn phạm vi mẫu khảo sát
3) Phạm vi thời gian của tiến trình của sự vật, phạm vi nội dung nghiên cứu.
-5-
5. Mẫu khảo sát trong quá trình nghiên cứu.
Mẫu khảo sát có thể được chọn trong: một không gian, một khu vực hành
chính, một quá trình, một hoạt động, một cộng đồng.
6. Đặt tên đề tài
Tên đề tài phải phản ánh cô đọng nhất nội dung nghiên cứu của đề tài. Tên một
đề tài khoa học khác với tên của tác phẩm văn học hoặc những bài luận chiến. Tên
một tác phẩm văn học hoặc một bài luận chiến có thể mang những ý ẩn dụ sâu xa.
Còn tên của một đề tài khoa học thì chỉ được mang một nghĩa, không được phép hiểu
hai hoặc nhiều nghĩa. Để làm được điều này, người nghiên cứu cần lưu ý một vài
nhược điểm cần tránh khi đặt tên đề tài:
Thứ nhất, tên đề tài không nên đặt bằng những cụm từ có độ bất định cao về
thông tin. Ví dụ:
• Về …; Thử bàn về…; Góp bàn về …
• Suy nghĩ về …; Vài suy nghĩ về…; Một số suy nghĩ về …
• Một số biện pháp …; Một số biện pháp về …
• Tìm hiểu về …; Bước đầu tìm hiểu về …; Thử tìm hiểu về …
• Nghiên cứu về …; Bước đầu nghiên cứu về …; Một số nghiên cứu về …
• Vấn đề …; Một số vấn đề …; Những vấn đề về …
Thứ hai, cũng cần hạn chế lạm dụng dụng những cụm từ chỉ mục đích để đặt tên
đề tài. Cụm từ chỉ mục đích là những cụm từ mở đầu bởi những từ để, nhằm, góp
phần, v.v.. Nói lạm dụng, nghĩa là sử dụng một cách thiếu cân nhắc, sử dụng tuỳ tiện
trong những trường hợp không chỉ rõ được nội dung thực tế cần làm, mà chỉ đưa
những cụm từ chỉ mục đích để che lấp những nội dung mà bản thân tác giả cũng chưa
có được một sự hình dung rõ rệt. Ví dụ:
• (…) nhằm nâng cao chất lượng…,
• (…) để phát triển năng lực cạnh tranh.
• (…) góp phần vào…,
Sẽ là không đạt yêu cầu khi đặt tên đề tài bao gồm hàng loạt loại cụm từ vừa
nêu trên đây, ví dụ: “Thử bàn về một số biện pháp bước đầu nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm góp phần tạo ra năng lực cạnh tranh trên thị trường”
Thứ ba, cũng sẽ là không đạt yêu cầu khi đặt những tên đề tài có dạng như:
“Lạm phát – Hiện trạng, Nguyên nhân, Giải pháp”. Đương nhiên, khi nghiên cứu đề
tài “Lạm phát”, tác giả nào chẳng phải tìm hiểu hiện trạng, phân tích nguyên nhân và
đề xuất giải pháp chống lạm phát. Tuy nhiên loại tên đề tài này còn có một lỗi hết
-6-
sức nghiêm trọng, nếu ta diễn giải tên đề tài này là đề tài nghiên cứu về 3 nội dung:
“Hiện trạng lạm phát”, “Nguyên nhân lạm phát” và “Giải pháp lạm phát”.
2.2. XÂY DỰNG LUẬN ĐIỂM KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
Luận điểm khoa học là một phán đoán về bản chất sự vật.
Quá trình xây dựng luận điểm khoa học bao gồm các bước: Phát hiện câu hỏi
nghiên cứu; Đặt giả thuyết nghiên cứu.
1. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu (Research Question) 3 là câu hỏi được đặt ra khi người
nghiên cứu đứng trước mâu thuẫn giữa tính hạn chê của tri thức khoa học hiện có với
yêu cầu phát triển tri thức đó ở trình độ cao hơn. Phát hiện được vấn đề nghiên cứu là
giai đoạn quan trọng trên bước đường phát triển nhận thức.
Tuy nhiên, nêu câu hỏi lại chính là công việc khó nhất đối với các bạn đồng
nghiệp trẻ tuổi: nhiều bạn sinh viên mới bắt tay làm nghiên cứu khoa học luôn phải
đặt những câu hỏi với thày cô đại loại như “nghiên cứu một đề tài khoa học nên bắt
đầu từ cái gì”. Câu trả lời trong trường hợp này luôn là: “Hãy bắt đầu từ đặt câu hỏi
nghiên cứu”.
Trong nghiên cứu khoa học luôn tồn tại hai lớp câu hỏi: Câu hỏi về bản chất sự
vật cần tìm kiếm, và câu hỏi về phương pháp nghiên cứu để làm sáng tỏ, về lý thuyết
và về thực tiễn những câu hỏi thuộc lớp thứ nhất.
Câu hỏi nghiên cứu đặt cho người nghiên cứu mối quan tâm: “Cần chứng minh
điều gì?”. Như vậy, thực chất việc đưa ra được những câu hỏi sẽ tạo cơ sở cho việc
tìm kiếm câu trả lời.
Tương tự như phát hiện vấn đề nghiên cứu, nhưng câu hỏi nghiên cứu nhằm chi
tiết hóa vấn đề nghiên cứu. Cũng có thể sử dụng những phương pháp tương tự để đặt
câu hỏi nghiên cứu. Có thể nêu cụ thể hơn như sau:
Nhận dạng những bất đồng trong tranh luận khoa học
Khi hai đồng nghiệp bất đồng ý kiến, có thể là họ đã nhận ra những mặt yếu của
nhau. Đây là cơ hội thuận lợi để người nghiên cứu nhận dạng những vấn đề mà các
đồng nghiệp đã phát hiện.
Nhận dạng những vướng mắc trong hoạt động thực tê
Nhiều khó khăn nảy sinh trong hoạt động sản xuất, hoạt động xã hội, không thể
sử dụng những lý thuyết hiện hữu để lý giải, hoặc những biện pháp thông thường để
xử lý. Thực tế này đặt trước người nghiên cứu những câu hỏi phải trả lời, tức xuất
hiện vấn đề, đòi hỏi người nghiên cứu phải đề xuất những giải pháp mới.
3
Robert K. Yin: Case study research, Design and Methods, Second Edition, Applied Social Research Methods
Series, Volume 5, SAGE Publications, London, 1994, pp. 5-8.
-7-
Nghĩ ngược lại quan niệm thông thường
Xét ví dụ, chẳng hạn, trong khi nhiều người cho rằng trẻ em suy dinh dưỡng là
do các bà mẹ kém hiểu biết về dinh dưỡng trẻ em, thì có người đã nêu câu hỏi ngược
lại: “Các bà mẹ là trí thức chắc chắn phải hiểu biết về dinh dưỡng trẻ em hơn các bà
mẹ nông dân. Vậy tại sao tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong nhóm con cái các bà mẹ là trí
thức lại cao hơn trong nhóm các bà mẹ là nông dân?”
Lắng nghe lời phàn nàn của những người không am hiểu
Đôi khi nhiều câu hỏi nghiên cứu xuất hiện nhờ lời phàn nàn của người hoàn
toàn không am hiểu lĩnh vực mà người nghiên cứu quan tâm. Chẳng hạn, sáng chế xe
điện của Edison chính là kết quả bất ngờ sau khi nghe được lời phàn nàn của một bà
già trong đêm khánh thành mạng đèn điện chiếu sáng đầu tiên ở một thị trấn ngoại ô
của thành phố New York: “Cái ông Edison làm ra được đèn điện mà không làm được
cái xe điện cho người già đi đây đi đó”.
Phát hiện mặt mạnh, mặt yêu trong nghiên cứu của đồng nghiệp
Mặt mạnh trong luận điểm, luận cứ, phương pháp của đồng nghiệp sẽ được sử
dụng làm luận cứ hoặc phương pháp để chứng minh luận điểm của mình; còn mặt yếu
được sử dụng để phát hiện vấn đề (tức đặt câu hỏi nghiên cứu), từ đó xây dựng luận
điểm cho nghiên cứu của mình.
Những câu hỏi bất chợt xuất hiện không phụ thuộc lý do nào
Đây là những câu hỏi xuất hiện ở người nghiên cứu do bất chợt quan sát được
một sự kiện nào đó, cũng có thể xuất hiện rất ngẫu nhiên, không phụ thuộc bất cứ lý
do, thời gian hoặc không gian nào.
2. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu (tiếng Anh là Hypothesis), là một kêt luận giả định về
bản chất sự vật, do người nghiên cứu đưa ra để chứng minh hoặc bác bỏ. Xét trong
quan hệ giữa giả thuyết với câu hỏi nghiên cứu, thì giả thuyết chính là “câu trả lời”
vào “câu hỏi” nghiên cứu đã nêu ra.
Người nghiên cứu cần căn cứ vào phân loại nghiên cứu để đưa ra những giả
thuyết phù hợp với bản chất của nghiên cứu khoa học.
Theo chức năng của nghiên cứu khoa học, giả thuyết được phân chia thành giả
thuyết mô tả, giả thuyết giải thích, giả thuyết dự báo, giả thuyết giải pháp.
Giả thuyết là một phán đoán, cho nên viết giả thuyết khoa học, xét về mặt logic
là viết một phán đoán.
Phán đoán là một thao tác logic luôn được thực hiện trong nghiên cứu khoa
học. Phán đoán có cấu trúc chung là “S là P”, trong đó, S được gọi là chủ từ của phán
đoán; còn P là vị từ (tức thuộc từ) của phán đoán.
-8-
Phán đoán được sử dụng trong trường hợp cần nhận định về bản chất một sự vật,
trình bày giả thuyết khoa học, trình bày luận cứ khoa học, v.v… Một số loại phán
đoán thông dụng được liệt kê trong Bảng 1.
2.3. CHỨNG MINH LUẬN ĐIỂM KHOA HỌC
Muốn chứng minh một luận điểm khoa học, người nghiên cứu phải có đầy đủ
luận cứ khoa học,
Muốn tìm được các luận cứ và làm cho luận cứ có sức thuyết phục người nghiên
cứu phải sử dụng những phương pháp nhất định. Phương pháp ở đây bao gồm hai
loại: phương pháp tìm kiếm luận cứ và phương pháp sắp xếp các luận cứ để chứng
minh luận điểm khoa học.
Đó là những việc làm cần thiết của người nghiên cứu trong quá trình chứng
minh luận điểm khoa học của mình.
Bảng 1: Phân loại các phán đoán
Phán đoán khẳng định
S là P
Phán đoán phủ định
S không là P
Phán đoán xác suất
S có lẽ là P
Phán đoán hiện thực
S đang là P
Phán đoán tất nhiên
S chắc chắn là P
Phán đoán chung
Mọi S là P
Phán đoán riêng
Một số S là P
Phán đoán đơn nhất
Duy có S là P
Phán đoán liên kết (phép hội)
S vừa là P 1 vừa là P2
Phán đoán lựa chọn (phép tuyển)
S hoặc là P1 hoặc là P2
Phán đoán có điều kiện
Nếu S thì P
Phán đoán tương tương
S khi và chỉ khi P
1. Cấu trúc logic của phép chứng minh
Cấu trúc logic của phép chứng minh được nghiên cứu trong logic học, gồm 3 bộ
phận hợp thành: Luận điểm, Luận cứ và Phương pháp.
Giả thuyết, là điều cần chứng minh trong một nghiên cứu khoa học. Giả thuyết
trả lời câu hỏi: “Cần chứng minh điều gì?” Về mặt logic học, giả thuyết là một phán
đoán mà tính chân xác 4 của nó cần được chứng minh.
4
Trong logic học hình thức có một cặp khái niệm được sử dụng bằng những thuật ngữ tiếng Việt khác nhau:
một số tác giả dùng “chân xác/phi chân xác”, một số tác giả khác dùng “chân thực/giả dối”. Trong sách này
dùng cặp thuật ngữ thứ nhất, vì nó mang ý nghĩa thuần tuý khoa học. Khi nói “chân thực/giả dối” thường mang
ý nghĩa đạo đức. Trong khoa học, thường khi nhà nghiên cứu rất chân thực, nhưng kết quả thu nhận được thì lại
-9-
Luận cứ là bằng chứng được đưa ra để chứng minh luận điểm. Luận cứ được
xây dựng từ những thông tin thu được nhờ đọc tài liệu, quan sát hoặc thực nghiệm.
Luận cứ trả lời câu hỏi: “Chứng minh bằng cái gì?”. Về mặt logic, luận cứ là phán
đoán mà tính chân xác đã được chứng minh và được sử dụng làm tiền đề để chứng
minh luận điểm.
Phương pháp, là các cách thức được sử dụng để tìm kiếm luận cứ và tổ chức
luận cứ để chứng minh luận điểm (luận đề). Trong logic học có một khái niệm tương
đương, là “Luận chứng”. Tuy nhiên, ban đầu khái niệm này trong logic học chỉ mang
nghĩa là “Lập luận”.
2. Luận cứ
Để chứng minh luận điểm khoa học, người nghiên cứu cần có hai loại luận cứ:
Luận cứ lý thuyết, là các luận điểm khoa học đã được chứng minh, bao gồm
các khái niệm, các tiên đề, định lý, định luật, quy luật, tức các mối liên hệ, đã được
khoa học chứng minh là đúng. Luận cứ lý thuyết được khai thác từ các tài liệu, công
trình khoa học của các đồng nghiệp đi trước. Việc sử dụng luận cứ lý thuyết sẽ giúp
người nghiên cứu tiết kiệm thời gian, không tốn kém thời gian để chứng minh lại
những gì mà đồng nghiệp đã chứng minh.
Luận cứ thực tế, được thu thập từ trong thực tế bằng cách quan sát, thực
nghiệm, phỏng vấn, điều tra hoặc khai thác từ các công trình nghiên cứu của các đồng
nghiệp. Về mặt logic, luận cứ thực tiễn là các sự kiện thu thập được từ quan sát hoặc
thực nghiệm khoa học. Toàn bộ quá trình nghiên cứu khoa học, sau khi hình thành
luận điểm, là quá trình tìm kiếm và chứng minh luận cứ.
Một giả thuyết được chứng minh hay bị bác bỏ đều có nghĩa là “một chân lý
được chứng minh”. Điều đó có nghĩa rằng, trong khoa học tồn tại hoặc không tồn tại
bản chất như đã nêu trong giả thuyết.
3. Phương pháp xây dựng và sử dụng luận cứ
Nhiệm vụ của người nghiên cứu phải làm 3 việc: tìm kiêm luận cứ, chứng minh
độ đúng đắn của bản thân luận cứ và sắp xêp luận cứ để chứng minh giả thuyết. Để
làm 3 việc đó phải có phương pháp. Phương pháp trả lời câu hỏi: “Chứng minh bằng
cách nào?”.
Người nghiên cứu cần những loại thông tin sau:
• Cơ sở lý thuyết liên quan đến nội dung nghiên cứu.
• Tài liệu thống kê và kết quả nghiên cứu của đồng nghiệp đi trước.
• Kết quả quan sát hoặc thực nghiệm của bản thân người nghiên cứu.
Muốn có luận cứ, người nghiên cứu phải biết lựa chọn các hướng tiếp cận để thu
thập thông tin. Những loại thông tin trên đây có thể được thu thập qua các tác phẩm
phi chân xác
– 10 –
khoa học, sách giáo khoa, tạp chí chuyên ngành, báo chí và các phương tiện truyền
thông, hiện vật, phỏng vấn chuyên gia trong và ngoài ngành.
Có các hướng tiếp cận cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp cận phương pháp chung.
Có hàng loạt cặp các hướng tiếp cận về phương pháp. Chẳng hạn:
− Tiếp cận Hệ thống/Cấu trúc
− Tiếp cận Lịch sử/Logic
− Tiếp cận Lý thuyết/Thực tiễn
− Tiếp cận Phân tích/Tổng hợp
− Tiếp cận Cá biệt/So sánh
Thứ hai, tiếp cận lý thuyết.
Trong tiếp cận lý thuyết, người nghiên cứu tìm kiếm các lý thuyết để hình thành
luận cứ. Chẳng hạn:
− Một nghiên cứu về nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam
trong kinh doanh, tác giả tìm kiếm luận cứ từ lĩnh vực điều khiển học kinh
tế (Economic Cybernetics), từ Lý thuyết trò chơi (Game Theory), v.v…
− Một nghiên cứu về mạng điện, các tác giả tìm kiếm cơ sở lý thuyết từ lý
thuyết mạng (Graph Theory), từ lý thuyết hệ thống (Systems Theory), v.v..
− Một nghiên cứu về cải cách quản lý giáo dục, các tác giả tìm kiếm cơ sở lý
thuyết từ giáo dục học, xã hội học, tâm lý học, v.v…
Thứ ba, tiếp cận thực tiễn.
Có thể có 3 hướng tiếp cận thực tiễn:
Khảo sát trực tiêp bằng các hoạt động quan sát hiện trường, chẳng hạn: điều tra
địa chất, điều tra rừng, thâm nhập thị trường, v.v…
Phương pháp chuyên gia thông qua các cuộc phỏng vấn, điều tra bằng bảng hỏi,
mở hội thảo để nghe ý kiến chuyên gia.
Phương pháp thực nghiệm bằng cách tiến hành các thí nghiệm trong labo hoặc
trong các xưởng thực nghiệm (công nghiệp), cánh đồng thực nghiệm (nông nghiệp),
các khu rừng thực nghiệm (lâm sinh) hoặc các cơ sở chỉ đạo thí điểm (thực nghiệm xã
hội), v.v…
– 11 –
CHƯƠNG III
PHƯƠNG PHÁP THU THẬP THÔNG TIN
Nghiên cứu khoa học là quá trình thu thập thông tin và chế biến thông tin.
Không một nghiên cứu nào là không cần thông tin. Không một khâu nào trong toàn
bộ quá trình nghiên cứu là không cần thông tin. Thông tin cần thiết trong tất cả các
trường hợp sau:
• Tìm kiếm chủ đề nghiên cứu
• Xác nhận lý do nghiên cứu
• Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu
• Xác định mục tiêu nghiên cứu
• Nhận dạng vấn đề nghiên cứu
• Đặt giả thuyết nghiên cứu
• Tìm kiếm luận cứ để chứng minh giả thuyết
3.1. ĐẠI CƯƠNG VỀ THU THẬP THÔNG TIN
Có nhiều phương pháp thu thập thông tin:
1) Nghiên cứu tài liệu hoặc phỏng vấn để kê thừa những thành tựu mà các đồng
nghiệp đã đạt được trong nghiên cứu.
2) Trực tiếp quan sát trên đối tượng khảo sát ngay tại nơi diễn ra những quá
trình mà người nghiên cứu có thể sử dụng làm luận cứ.
3) Tiến hành các hoạt động thực nghiệm trực tiếp trên đối tượng khảo sát hoặc
trên mô hình tương tự các quá trình diễn ra trên đối tượng nghiên cứu.
4) Thực hiện các trắc nghiệm trên đối tượng khảo sát để thu thập các thông tin
phản ứng từ phái đối tượng khảo sát.
Trong nhiều trường hợp người nghiên cứu không thể trực tiếp thu thập thông tin
trên đối tượng khảo sát, ví dụ, núi lửa đã tắt, trận động đất đã ngưng, một sự kiện lịch
sử đã lùi vào quá khứ, v.v…Khi đó, người nghiên cứu phải thu thập thông tin một
cách gián tiếp qua những người trung gian. Người ta gọi chung là phương pháp
chuyên gia.
Phương pháp chuyên gia bao gồm:
– 12 –
• Phỏng vấn những người có am hiểu hoặc có liên quan đến những thông tin
về sự kiện khoa học.
• Gửi phiếu điều tra (bảng hỏi) để thu thập thông tin liên quan tới sự kiện khoa
học.
• Thảo luận dưới các hình thức hội nghị khoa học.
1. Chọn mẫu khảo sát.
Mẫu, tức đối tượng khảo sát, được lựa chọn từ khách thể. Bất kể nghiên cứu
trong lĩnh vực nào, người nghiên cứu đều phải chọn mẫu:
• Chọn địa điểm khảo sát trong hành trình điều tra tài nguyên
• Chọn các nhóm xã hội để điều tra dư luận xã hội
• Chọn mẫu vật liệu để khảo nghiệm tính chất cơ, lý, hóa trong nghiên cứu vật
liệu
• Chọn một số mẫu bài toán để nghiên cứu phương pháp giải
• v.v…
Việc chọn mẫu có ảnh hưởng quyết định tới độ tin cậy của kết quả nghiên cứu
và chi phí các nguồn lực cho công cuộc khảo sát. Việc chọn mẫu phải đảm bảo tính
ngẫu nhiên, nhưng phải mang tính đại diện, tránh chọn mẫu theo định hướng chủ quan
của người nghiên cứu.
Có một số cách chọn mẫu thông dụng sau 5:
Lấy mẫu ngẫu nhiên (Random sampling), là cách chọn mẫu sao cho mỗi đơn vị
lấy mẫu có một cơ hội hiện diện trong mẫu bằng nhau.
Lấy mẫu hệ thống (Systematic sampling). Một đối tượng gồm nhiều đơn vị được
đánh số thứ tự. Chọn một đơn vị ngẫu nhiên có số thứ tự bất kỳ. Lấy một số bất kỳ
làm khoảng cách mẫu, cộng vào số thứ tự của mẫu đầu tiên.
Lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng (Stratified random sampling). Trong trường hợp
này, đối tượng được chia thành nhiều lớp, mỗi lớp có những đặc trưng đồng nhất. Như
vậy, từ mỗi lớp, người nghiên cứu có thể thực hiện theo kỹ thuật lấy mẫu ngẫu nhiên.
Cách lấy mẫu này cho phép phân tích số liệu khá toàn diện, nhưng có nhược
điểm là phải biết trước những thông tin để phân tầng, phải tổ chức cấu trúc riêng biệt
trong mỗi lớp.
Lấy mẫu hệ thống phân tầng (Stratified systematic sampling). Đối tượng điều tra
gồm nhiều tập hợp không đồng nhất liên quan đến những thuộc tính cần nghiên cứu.
Lấy mẫu được thực hiện trên cơ sở phân chia đối tượng thành nhiều lớp, mỗi lớp có
5
Cristina P. Parel et al.: Sampling Design and Procedures, IDRC, Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Trí Hùng,
Nxb.Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, 1991.
– 13 –