Nghiên cứu khoa học là gì ? – Phân tích xử lý dữ liệu
Nghiên cứu khoa học là một quá trình nhận thức chân lý khoa học, là một hoạt động trí tuệ đặc thù; nó tuân theo những quy luật chung nhất của sự nhận thức, tuân theo những quy luật sáng tạo khoa học và tuân theo những quy luật chung, phổ biến của logic nghiên cứu một đề tài khoa học nói riêng. Đồng thời nghiên cứu khoa học cũng chịu sự chi phối của những quy luật đặc thù của việc nghiên cứu đối tượng, chịu sự chi phối của tính chất riêng của đối tượng nghiên cứu.
Thành tựu của nghiên cứu khoa học là do công trình nghiên cứu cụ thể vun đắp nên. Hiệu quả của một công trình lý thuyết hay thực nghiệm phụ thuộc vào việc tổ chức và điều chỉnh tối ưu logic của công trình nghiên cứu khoa học đó.
Nghiên cứu khoa học là gì?
Nghiên cứu khoá học là quá trình nhận thức chân lý khoa học, một hoạt động trí tuệ đặc thù bằng những phương pháp nghiên cứu nhất định để tìm kiếm, để chỉ ra một cách chính xác và có mục đích những điều mà con người chưa biết đến (hoặc biết chưa đầy đủ) tức là tạo ra sản phẩm mới dưới dạng tri thức mới có giá trị mới về nhận thức hoặc phương pháp.
- Nghiên cứu khoa học là quá trình nhận thức hướng vào
- Khám phá những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng; phát hiện các quy luật vận động vốn có của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội nhằm phát triển nhận thức khoa học về thế giới.
- Nghiên cứu khoa học là hoạt động trí tuệ sáng tạo góp phần cải tạo hiện thực:
+ Vận dụng quy luật để sáng tạo các giải pháp tác động tích cực vào sự vật, hiện tượng.
+ Tạo dựng các nguyên lý hoàn toàn mới về “công nghệ” nhằm phục vụ cho công cuộc chế biến vật chất và thông tin.
Vậy bản chất của nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học nhằm nhận thức thế giới tạo ra hệ thống tri thức có giá trị để sử dụng vào cải tạo thế giới.
Chức năng của nghiên cứu khoa học
Hai mục đích cơ bản của nghiên cứu khoa học: nhận thức và cải tạo thế giới được thực hiện thông qua các chức năng sau:
Mô tả
Nhận thức khoa học thường được bắt đầu bằng sự mô tả sự vật (đối tượng nghiên cứu). Người nghiên cứu đưa ra hệ thống tri thức về nhận dạng đối tượng nghiên cứu: tên gọi, hình thái, động thái, cấu trúc, chức năng của nó; mô tả định tính nhằm chỉ rõ các đặc trưng về lượng của đối tượng, mô tả định lượng nhằm chỉ rõ các đặc trưng về lượng của đối tượng…giúp phân biệt được sự khác nhau về bản chất giữa đối tượng nghiên cứu với sự vật khác.
Kết quả của sự mô tả là khái niệm được phát biểu lên bằng kinh nghiệm.
Giải thích
Giải thích trong nghiên cứu khoa học là làm roc căn nguyên dẫn đến sự hình thành, phát triển và quy luật chi phối quá trình vận động của đối tượng nghiên cứu; đưa ra thông tin lý giải về bản chất của đối tượng (khẳng định bản chất được phát biểu dưới dạng tính chất, chứng minh tính quy luật của những gì đã khẳng định về bản chất của đối tượng).
Người nghiên cứu đưa ra những thông tin giải thích về nguồn gốc hình thành, động thái, cấu trúc, tương tác, hậu quả của tác động, quy luật chung chi phối quá trình vận động của đối tượng nghiên cứu – đó là những thông tin về thuộc tính bản chất của đối tượng nghiên cứu giúp nhận dạng không chỉ những biểu hiện bên ngoài mà còn cả những thuộc tính bên trong của đối tượng nghiên cứu.
Kết quả của sự giải thích là tri thức đạt đến trình độ tư duy lý luận.
Tiên đoán
Tiên đoán về sự vật là sự nhìn trước quá trình hình thành, phát triển, tiêu vong, sự vận động và những biểu hiện của sự vật trong tương lai.
Nhờ hai chức năng: mô tả, giảu thích mà người nghiên cứu có khả năng ngoại suy, nhìn trước xu thế vận động, quá trình hình thành, phát triển, và sự biểu hiện của đối tượng nghiên cứu trong tương lai.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu khoa học mọi phép ngoại suy và dự báo đều phải chấp nhận độ sai lệch nhất định. Sự sai lệch trong các kết quả dự báo có thể do nhiều nguyên nhân: nhạn thức ban đầu của người nghiên cứu chưa chuẩn xác, sai lệch do quan sát, sai lệch do những luận cứ bị biến dạng trong sự tác động của những sự vật khác, môi trường cũng luôn có thể biến động.v.v
Sáng tạo
Ngiên cứu khoa học không bao giờ dừng lại ở chức năng: mô tả, giải thích và tiên đoán, mà sứ mệnh có ý nghĩa lớn lao của nghiên cứu khoa học là sáng tạo các giải pháp để cải tạo thế giới. Hơn nữa, nghiên cứu khoa học luôn hướng tới cái mới đòi hỏi sự sáng tạo và nhạy bén của tư duy.
Mục tiêu của nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học nhằm bốn mục tiêu:
- Mục tiêu nhận thức: phát triển ngày càng sâu, rộng nhận thức của con người về thế giới, phát hiện các quy luật về thế giới, phát triển kho tàng tri thức nhân loại.
- Mục tiêu sáng tạo: nhằm tạo ra công nghệ mới trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, nâng cao trình độ văn minh, nâng cao năng suất trong tất cả các lĩnh vực hoạt động.
- Mục đích kinh tế: nghiên cứu khoa học phải dẫn tới hiệu quả kinh tế, góp phần làm tăng trưởng kinh tế xã hội
- Mục tiêu văn hoá và văn minh: mở mang dân trí, nâng cao trình độ văn hoá, từng bước hoàn thiện con người, đưa xã hội lên một trình độ văn minh cao hơn.
Tính mới
Tính mới là thuộc tính quan trọng số một của lao động khoa học. Nghiên cứu khoa học luôn hướng tới những phát hiện mới, không chấp nhận sự lặp lại như cũ dù đó là trong thí nghiệm hay trong cách lý giải và các kết luận. Hướng tới cái mới đò hỏi sự sáng tạo và nhạy bén của tư duy.
Tính thông tin
Đây là đặc điểm quan trọng của nghiên cứu khoa học, bởi vì bất kỳ sản phẩm nào của nghiên cứu khoa học (như: báo cáo khoa học, tác phẩm khoa học, mẫu vật liệu mới, mẫu sản phẩm mới, mô hình thí điểm về một phương thức sản xuất mới.v.v.) đều mang đặc trưng thông tin, là kết quả của quá trình khai thác và xử lý thông tin. Đặc điểm này phản ánh trình độ và năng lực của người nghiên cứu: phải biết tìm thấy trong các nguồn thông tin những giá trị hữu ích phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
Tính tin cậy
Một kết quả nghiên cứu đạt được phải có khả năng kiểm chứng lại nhiều lần do nhiều người khác nhau thực hiện trong những điều kiện (quan sát hoặc thí nghiệm) giống nhau và với những kết quả thu được hoàn toàn giống nhau. Khi đó có thể xem kết quả ấy đủ tin cậy để kết luận về bản chất của sự vật hoặc hiện tượng.
Tính khách qua
Cơ sở của tính khách quan trong nghiên cứu khoa học là sự trung thực. Để đảm bảo tính khách quan, người nghiên cứu không được nhận định vội vã theo cảm tính, không được đưa ra kết luận thiếu các xác nhận bằng kiểm chứng, mà luôn luôn phải lật đi lật lại những kết luận tưởng đã hoàn toàn được xác nhận, phải tự trắc nghiệm và kiểm tra chặt chẽ.
Tính mạnh dạn, mạo hiểm
Trong nghiên cứu khoa học cần phải tính toán, cân nhắc một cách thận trọng, song cũng cần phải tính đến những yêu cầu sau:
- Đòi hỏi người nghiên cứu phải dám đảm nhận những vấn đề, những đề tài chưa có ai nghiên cứu, hoặc các lĩnh vực hết sức mới mẻ.
- Chấp nhận khả năng rủi ro, khả năng thất bại trong nghiên cứu khoa học.
Thất bại trong nghiên cứu khoa học có thể do nhiều nguyên nhân ở mức độ khác nhau: thiếu thông tin cần thiết và đủ tin cậy để xử lý vấn đề đặt ra; trình độ kỹ thuật của thiết bị không đủ đáp ứng nhu cầu kiểm chứng giải quyết; khả năng thực hiện của người nghiên cứu chưa đủ tầm xử lý vấn đề; giả thuyết nghiên cứu đặt ra sai; những tác nhân bất khả kháng…
Tuy nhiên, trong nghiên cứu khoa học, thất bại cũng được xem là một kết quả, phải được tổng kết lại, lưu trữ như một tài liệu khoa học nghiêm túc để tránh choi những người đi sau khỏi dẫm chân lên lối mòn, lãng phí nguồn lực nghiên cứu.
Không chỉ quá trình nghiên cứu chịu những rủi ro mà ngay cả những nghiên cứu đã thử nghiệm thành công vẫn chịu những rủi ro trong áp dụng, có thể do kỹ thuật chưa được làm chủ khi triển khai áp dụng trong phạm vi rộng hay vì một nguyên nhân xã hội nào đó…
Tính kinh tế
Mục đích lâu dài của nghiên cứu khoa học là góp phần phát triển kinh tế – xã hội. Song nghiên cứu khoa học không thể coi mục đích kinh tế là mục đích trực tiếp, vì lao động nghiên cứu khoa học hầu như không thể định mức một cách chính xác như trong sản xuất vật chất; hiệu quả kinh tế của nghiên cứu khoa học hầu như không thể xác định; những thiết bị chuyên dụng cho nghiên cứu khoa học hầu như không thể khấu hao. Nói như vậy không có nghĩa là trong nghiên cứu khoa học bỏ qua điều kiện kinh tế, thậm chí trong một số lĩnh vực chi phí cho nghiên cứu khoa học rất lớn, nhưng việc ứng dụng những thành tựu của nó rất ít ỏi.
Đặc điểm của nghiên cứu khoa học
Tuỳ theo mục tiêu nghiên cứu và các sản phẩm thu được sau nghiên cứu mà người ta chia thành những loại hình nghiên cứu khoa học khác nhau. Nghiên cứu khoa học thông thường gồm những loại hình sau:
Nghiên cứu cơ bản (fundamental research)
Nghiên cứu cơ bản là hoạt động nghiên cứu nhằm phát hiện bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, con người, nhờ đó làm thay đổi nhận thức của con người.
- Sản phẩm của nghiên cứu cơ bản có thể là các khám phá, phát hiện, phát kiến, phát minh, và thường dẫn đến việc hình thànhmột hệ thống lý thuyết có ảnh hưởng đến một hoặc nhiều lĩnh vực khoa học. Chẳng hạn: Archimède phát hiện định luật sức nâng của nước; Marie và Piere Curie phát hiện nguyên tố phóng xạ rađium; Karl Marx phát hiện quy luật giá trị thặng dư; Adam Smith phát hiện quy luật “bàn tay vô hình” của kinh tế thị trường.v.v.
Phát hiện (discovery)
- Phát hiện là sự khám phá ra những vật thể, những quy luật xã hội đang tồn tại một cách khách quan
Ví dụ: Kock phát hiện vi trùng lao, Galileo phát hiện các vệ tinh của sao hoả, Christoph Colomb phát hiện châu Mỹ…
- Phát hiện chỉ mới là sự khám phá các vật thể, các quy luật xã hội làm thay đổi nhận thức, chưa thể áp dụng trực tiếp, chỉ có thể áp dụng thông qua giải pháp. Vì vậy, phát hiện không có giá trị thương mại, không cấp bằng và không được bảo hộ pháp lý
Phát minh (discovery)
- Phát minh là sự khám phá ra những quy luật, những tính chất hoặc những hiện tượng của thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan mà trước đó chưa ai biết, nhờ đó làm thay đổi cơ bản của con người.
Ví dụ: Newton phát minh định luật vạn vật hấp dẫn trong vũ trụ; Lêbêdev phát minh tính chất áp suất của ánh sáng; Nguyễn Văn Hiệu phát minh quy luật bất biến kích thước của tiết diện các quá trình sinh hạt,.v.v.
- Đối tượng của phát minh là những hiện tượng, tính chất, quy luật của thế giới vật chất đang tồn tại một cách khách quan. Nhưng theo quy ước thì những đối tượng sau đây không được xem là phát minh mà chỉ xem là các phát hiện hoặc phát kiến: phát hiện về địa lý tự nhiên, địa chất, tài nguyên và điều kiện thiên nhiên, phát hiện khảo cổ học, phát hiện trong khoa học xã hội…
- Phát minh cũng chỉ mới là những khám phá về các quy luật khách quan, chưa có ý nghĩa áp dụng trực tiếp vào sản xuất hoặc đời sống. Vì vậy, phát minh không có giá trị thương mại, không được cấp bằng phát minh và không được bảo hộ pháp lý. Tuy nhiên, người ta lại công nhận quyền ưu tiên của phát minh tính từ ngáy phát minh được công bố.
- Xét trên góc độ ý tưởng và mục đích nghiên cứu có thể chia nghiên cứu cơ bản thành hai loại: nghiên cứu cơ bản thuần tuý và nghiên cứu cơ bản định hướng.
Nghiên cứu cơ bản thuần tuý:
Nghiên cứu cơ bản thuần tuý còn được gọi là nghiên cứu cơ bản tự do hoặc nghiên cứu cơ bản không định hướng. Đây là những hoạt động nghiên cứu với mục đích thuần tuý là phát hiện ra bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội để nâng cao nhận thức mà chưa có hoặc chưa bàn đến ý nghĩa ứng dụng.
Nghiên cứu cơ bản định hướng:
Nghiên cứu cơ bản định hướng là hoạt đọng nghiên cứu cơ bản nhằm vào mục đích nhất định hoặc để ứng dụng vào những dự kiến định trước..
Ví dụ: Hoạt động thăm dò địa chất mỏ hướng vào mục đích phục vụ nhu cầi khai thác khoáng sản; các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên, kinh tế, xã hội…đều có thể xem là nghiên cứu cơ bản định hướng.
Nghiên cứu cơ bản định hướng đựoc chia thành: nghiên cứu nền tảng và nghiên cứu chuyên đề.
Nghiên cứu nền tảng (Background research): là hoạt động nghiên cứu về quy luật tổng thể của một hệ thống sự vật.
Chẳng hạn: điều tra cơ bản tài nguyên; nghiên cứu khí tượng; nghiên cứu bản chất vật lý, hoá học, sinh học của vật chất; điều tra cơ bản về kinh tế, xã hội…đều thuộc về nghiên cứu nền tảng.
Nghiên cứu chuyên đề (thematic research): là hoạt động nghiên cứu về một hiện tượng đặc biệt của sự vật.
Chẳng hạn: điều tra cơ bản tài nguyên; nghiên cứu khí tượng; nghiên cứu bản chất vật lý, hoá học, sinh học của vật chất; điều tra cơ bản về kinh tế, xã hội… đều thuộc về nghiên cứu nền tảng.
Nghiên cứu chuyên đề (thematic research): là hoạt động nghiên cứu về một hiện tượng đặc biệt của sự vật.
Chẳng hạn: trạng thái thứ tự (plasma) của vật chất, từ trường trái đất, bức xạ vũ trụ, gen di truyền…
Nghiên cứu cơ bản là một hoạt động, một công việc không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học. Nó trở thành nền tảng, cơ sơ cho các hoạt động nghiên cứu khác như: nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu triển khai.
Nghiên cứu ứng dụng (applied research)
- Nghiên cứu ứng dụng là hoạt động nghiên cứu vận dụng các quy luật đã được phát hiện từ nghiên cứu cơ bản để giải thích sự vật, tạo dựng các nguyên lý công nghệ mới, nguyên lý sản phẩm mới và nguyên lý dịch vụ mới, áp dụng chúng vào sản xuất và đời sống.
- Sản phẩm của nghiên cứu ứng dụng có thể là những giải pháp mới về tổ chức, quản lý, công nghệ, vật liệu, sản phẩm. Một số giải pháp hữu ích về công nghệ có thể trở thành sáng chề. Sáng chế là loại thành tựu trong khoa học, kỹ thuật và công nghệ, trong khao học xã hội và nhân văn không có sản phẩm loại này.
Sáng chế (invention)
Sáng chế là một giải pháp kỹ thuật mang tính mới về nguyên lý kỹ thuật, tính sáng tạo và áp dụng được.
Ví dụ: Máy hơi nước của James Wart, công thức thuốc nổ TNT của Nobel, công nghệ di truyền…là những sáng chế.
Vì sáng chề có khả năng áp dụng, nên nó có ý nghĩa thương mại, được cấp bằng sáng chế (patent), có thể mua bản patent hoặc ký kết các hợp đồng cấp giấy phép sử dụng (hợp đồng licence) cho người có nhu cầu và được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Điều cần lưu ý là, điểm xuất phát của nghiên cứu ứng dụng là ở chỗ: nhận thức của con người không bao giừo có mục đích tự thân mà kết quả nhận thức phải quay trở về thực tiễn. Do đó, việc nghiên cứu ứng dụng là một tất yếu trong hoạt động nghiên cứu khoa học và nó gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu cơ bản. Kết quả của nghiên cứu ứng dụng là sự cụ thể hoá kết quả nghiên cứu cơ bản vào trong các lĩnh vực của sản xuất và đời sống. Nó là khâu quan trọng làm cho khoa học, kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tuy nhiên, để có thể đưa kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn thì còn cần tiến hành loại hình nghiênc cứu triển khai.
Nghiên cứu triển khai (developmental research)
Nghiên cứu triển khai là hoạt động nghiên cứu vật dụng các quy luật (thu được từ nghiên cứu cơ bản) và các nguyên lý công nghệ hoặc nguyên lý vật liệu (thu được từ nghiên cứu ứng dụng) để đưa ra những hình mẫu về một phương diện kỹ thuật mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới với những tham số đủ mang tính khả thi về mặt kỹ thuật.
Điều cần lưu ý là kết quả của nghiên cứu triển khai thì chưa triển khai được (!). Sản phẩm của nghiên cứu triển khai mới chỉ là những hình mẫu có tính khả thi khác như: khả thi về tài chính, khả thi về kinh tế, khả thi về môi trường, khả thi về xã hội…
Nghiên cứu triển khai bao gồm cả quá trình thiết kế thử nghiệm và mô hình thử nghiệm. Vì vây, nghiên cứu triển khai chia thành hai loại: Triển khai trong phòng: là loại hình triển khai thực nghiệm hướng vào việc áp dụng trong điều kiện của phòng thí nghiệm những nguyên lý thu được từ nghiên cứu ứng dụng nhằm khẳng định kết quả sao cho ra được sản phẩm chưa quan tâm đến quy mô áp dụng.
- Triển khai bán đại trà: còn gọi là pilot trong các nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật và khoa học công nghệ; là dạng triển khai nhằm kiểm chứng giả thuyết về một hình mẫu trên một quy mô nhất định, thường là quy mô áp dụng bán đại trà nhằm xác định những điều kiện cần và đủ để mở rộng áp dụng đại trà.
- Nghiên cứu triển khai được áp dụng cả trong nghiên cứu khoa học kỹ thuật và khao học xã hội. Trong khoa học kỹ thuật hoạt động triển khai được áp dụng khi chế tạo một mẫu công nghệ mới, mẫu vật liệu mới hoặc mẫu sản phẩm mới; trong khao học xã hội có thể thử nghiệm một phương pháp dạy học ở các lớp thí điểm, thí điểm một mô hình quản lý mới tại một cơ sở được lựa chọn.
Nghiên cứu thăm dò (survey research)
Nghiên cứu thăm dò là hoạt động nghiên cứu nhằm xác định hướng nghiên cứu, là dạng thăm dò thị trường để tìm kiếm cơ hội nghiên cứu.
Nghiên cứu thăm dò có ý nghĩa chiến lược với sự phát triển của khoa học, nó đặt nền tảng cho việc nghiên cứu, khám phá những bí ẩn của thế giới vật chất, là cơ sở để hình thành nhiều bộ môn, nhiều ngành khoa học mới, những nghiên cứu thăm dò không thể tính toán được hiệu quả kinh tế.
Sự phân chia các loại hình nghiên cứu là để nhận thức rõ bản chất của nghiên cứu khoa học, để có cơ sở lập kế hoạch nghien cứu, tổ chức nghiên cứu, cụ thể hoá các cam kết trong hợp đồng nghiên cứu giữa các đối tác. Tuy nhiên, các loại hình nghiên cứu khoa học có mối quan hệ với nhau ở những mức độ nhất định và trên thực tế, trong một đề tài khoa học có thể tồn tại cả bốn, ba hoặc hai, loại hình nghiên cứu.
Tư duy trong nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học là quá trình nhận thức, một hoạt động trí tuệ đặc thù, trong đó người nghiên cứu phải sử dụng tư duy lôgic (tư duy trừu tượng) – giai đoạn cao của quá trình nhận thức; là công cụ chủ yếu của nghiên cứu khoa học, nhờ đó mà phân biệt được về bản chất sự vật này với sự vật khác. Ở đây, nhận thức được tiến hành một cách gián tiếp thông qua ngôn ngữ với các hình thức: khái niệm, phán đoán, suy luận.
Khái niệm
Khái niệm là một phạm trù của logic học, là hình thức của tư duy trừu tượng phản ánh những thuộc tính chung, bản chất vốn có của một lớp sự vật, hiện tượng.
Cấu trúc logic của khái niệm:
Khái niệm bao gồm hai bộ phận hợp thành: nội hàm và ngoại diên.
+ Nội hàm: nội hàm của khái niệm là tập hợp những dấu hiệu, những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng được phản ánh trong khái niệm.
Nói cách khác: nội hàm của khái niệm chứa dấu hiệu riêng biệt, bản chất của sự vật, hiện tượng mà khái niệm đó phản ánh.
Như vậy, nội hàm của khái niệm là tất cả những thuộc tính bản chất, vốn có của sự vật, hiện tượng. Nội hàm trả lời câu hỏi: sự vật là cái gì?
+ Ngoại diên: ngoại diên của khái niệm là tập hợp những sự vật có cùng thuộc tính chung, cùng bản chất được phản ánh trong nội hàm. Nói cách khác, ngoại diên
của khái niệm là tập hợp những sự vật, hiện tượng có chứa những dấu hiệu được phản ánh trong nội hàm: Tập hợp những sự vật, hiện tượng tạo thành ngoại diên của khái niệm gọi là “lớp”.
Như vậy, ngoại diên của khái niệm là tập hợp tất cả những các cá thể có chứa thuộc tính chung được chỉ trong nội hàm. Ngoại diên trả lời câu hỏi: có bao nhiêu sự vật như vậy?
Bảng 2: Ví dụ về nội hàm và ngoại diên của khái niệm
Khái niệm
Nội hàm
Ngoại diên
Hệ thống tri thức về:
– Khoa học tự nhiên.
– Khoa học kỹ thuật và công
Khoa
– Bản chất và quy luật của tự
nghệ.
học
nhiên, xã hội và con người.
– Khoa học xã hội và nhân văn
– Các biện pháp cải tạo thế giới
Đồng hồ
Dụng cụ đo thời gian
Đồng hồ cơ khí, đồng hồ điện tử, đồng hồ để bàn, đồng hồ đeo tay, đồng hồ báo thức…
Thủ đô
Trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá.
Hà Nội, Bắc Kinh, Matxcơva, Pari…
Giữa nội hàm và ngoại diên của khái niệm có quan hệ tỷ lệ nghich: nội hàm càng rộng thì ngoại diên càng hẹp và ngược lại.
Các loại khái niệm:
+ Nếu xét theo ngoại diên thì có những loại khái niệm sau:
- Khái niệm đơn nhất: là khái niệm chỉ phản ánh từng sự vật, hiện tượng riêng lẻ. Ví dụ: Hà Nội, Sông Hồng,…
- Khái niệm chung: là khái niệm chứa từ hai đối tượng trở lên. Ví dụ: khoa học, con người, thủ đô, dòng sông…
- Khái niệm tập hợp: là những khái niệm gộp các đối tượng thành một chỉnh thể duy nhất. Ví dụ: lớp học, đội bóng…
- Khái niệm trống rỗng: là những khái niệm không chứa một đối tượng nào trong hiện thực. Ví dụ: ma, thiên đường, ngáo ộp…
+ Nếu xét theo nội hàm thì có những loại khái niệm sau:
- Khái niệm cụ thể: cái bút, quyển sách…
- Khái niệm trừu tượng: là khái niệm phản ánh những thuộc tính, còn bỏ qua những mối liên hệ và không thể lượng hoá được. Ví dụ: trung thực, thật thà, láu cá…
- Khái niệm khẳng định: là khái niệm xác nhận sự tồn tại của dấu hiệu. Ví dụ: bảng đen, anh A đẹp trai, chị B xinh gái…
- Khái niệm phủ định: là khái niệm biểu thị sự vắng mặt của các dấu hiệu chứa đựng trong nội hàm của khái niệm khẳng định. Ví dụ: anh A không đẹp trai, chị B không xinh gái…
- Khái niệm tương quan: là khái niệm phản ánh mối quan hệ giữa các đối tượng. Ví dụ: ngày – đêm, cao – thấp, đen – trắng, âm – dương…
- Khái niệm không tương quan: là khái niệm phản ánh các đối tượng một cách rời rạc, không có liên hệ với nhau. Ví dụ: nguyên tử, nhà nước…
Các quy luật đặc thù của tư duy lôgic
Quy luật đồng nhất:
Quy luật đồng nhất phát biểu: mỗi tư tưởng phải luôn luôn đồng nhất với chính nó.
Quy luật đồng nhất yêu cầu: trong quá trình tư duy không được tự ý thay đổi nội dung khái niệm, không được đánh tráo khái niệm, nếu vi phạm yêu cầu này làm cho tư duy rối loạn, không thể phản ánh đúng sự vật, hiện tượng.
- Quy luật mâu thuẫn (quy luật cấm mâu thuẫn)
Quy luật mâu thuẫn phát biểu: có hai ý kiến trái ngược nhau về một đối tượng trong cùng một thời gian và không gian thì không thể cả hai cùng đúng mà ít nhất có một ý kiến sai.
Quy luật này đòi hỏi: tư duy đứng đắn là phải dựa trên những mệnh đề nhất quán, có như vậy mới phản ánh đúng sự vật; quy luật này không cho phép tư duy có mâu thuẫn (ở đây cần phân biệt mâu thuẫn của tư duy lôgic với mâu thuẫn của phép biện chứng).
- Quy luật bài trung ( quy luật loại bỏ cái thứ ba):
Quy luật bài trung phát biểu: một sự vật trong một quan hệ xác địnhnếu có hai phán đoán mâu thuẫn nhau thì trong đó một phán đoán đúng và một phán đoán sai, không thể có phán đoán thứ ba.
- Quy luật lý do đầy đủ:
Quy luật lý do đầy đủ phát biểu: mọi tư tưởng hợp với vhân lý phải có căn cứ (lý do) đầy đủ: các căn cứ đầy đủ phải được chứng minh.
Quy luật này không cho phép tư duy đưa ra những phán đoán, những suy luận mang tính chủ quan.
Người nghiên cứu khoa học cần quán triệt các quy luật trên để hướng tư duy khoa học của mình theo đúng hướng đích nhằm đạt kết quả cao trong hoạt động nghiên cứu khoa học.
Tài liệu được sưu tầm và trích dẫn
Summary
Reviewer
Lê Tuấn Anh
Review Date
2020-06-08
Reviewed Item
Dịch vụ hỗ trợ công bố khoa học
Author Rating
Product Name
Dịch vụ hỗ trợ công bố ISSN
Price
VND
30000000
Product Availability
Pre-Order Only