Hội thảo về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài, khoảng trống pháp luật Việt Nam còn bỏ ngỏ
Thực tiễn cho thấy việc xử lý phá sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hoặc công ty mẹ bị phá sản có tài sản tại các công ty con ở Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn. Ví dụ, năm 2017, Sở Kế hoạch và Đầu tư của tỉnh Quảng Bình gặp vướng mắc trong việc xem xét thay đổi giấy chứng nhận đầu tư của một một doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư của doanh nghiệp tại Cộng hòa Séc. Theo bản án của tòa án Cộng hòa Séc, công ty mẹ đã bị tuyên bố phá sản và quản tài viên theo pháp luật của Cộng hòa Séc được chỉ định sẽ chịu trách nhiệm quản lý tài sản của công ty mẹ, trong đó có cả tài sản của công ty con tại Quảng Bình. Tuy vậy, việc cho phép quản tài viên quản lý tài sản của Công ty con tại Quảng Bình còn gặp nhiều khó khăn.
Quy định pháp luật về phá sản có yếu tố nước ngoài còn chưa cụ thể và còn thiếu cơ chế để thực hiện. Luật Phá sản năm 2014 tại Chương XI chỉ có 03 điều (Điều 116, 117 và 118) quy định về phá sản có yếu tố nước ngoài, trong đó các quy định còn chung chung và chỉ mang tính chất dẫn chiếu gây khó khăn cho việc áp dụng. Một trong những dẫn chiếu đó là dẫn chiếu đến việc công nhận và cho thi hành quyết định phá sản của tòa án nước ngoài. Điều 118 Luật quy định “Việc công nhận và cho thi hành quyết định giải quyết phá sản của Tòa án nước ngoài được thực hiện theo quy định của hiệp định tương trợ tư pháp mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và quy định khác của pháp luật về tương trợ tư pháp”.
Bên cạnh đó, Việt Nam hiện chưa ký kết bất kỳ một thỏa thuận song phương hoặc gia nhập điều ước quốc tế đa phương nào về phá sản có yếu tố nước ngoài. Trong khi đó, số lượng các hiệp định song phương về tương trợ tư pháp về dân sự với các nước và vùng lãnh thổ, trong đó có quy định về công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài bao gồm cả bản án, quyết định về phá sản cũng không nhiều. Điều này dẫn đến việc công nhận và cho thi hành quyết định giải quyết phá sản của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam trở thành một điều khó khăn và cản trở ít nhiều đến việc bảo vệ và tối đa hóa giá trị tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán khi chủ nợ hoặc tài sản của doanh nghiệp ở nước ngoài.