Địa chí Đà Lạt

CHƯƠNG III

Y TẾ,  GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO, KHOA HỌC VÀ CÔNG
NGHỆ

 

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

 

 

4.  VIỆN NGHIÊN CỨU HẠT NHÂN ĐÀ LẠT

Năm 1958, chính quyền miền Nam đã thành lập Nguyên tử lực cuộc
và đến năm 1961 một cơ sở nghiên cứu khoa học và kỹ thuật hạt
nhân được thành lập mang tên Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử Đà
Lạt. Trung tâm được xây dựng tại một khu vực có diện tích 21 ha
ở số 4 đường Nguyên Tử Lực. Công trình được khởi công xây dựng
từ tháng 4-1961 và được hoàn thành vào tháng 12-1962.

Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt là loại lò phản ứng nghiên cứu TRIGA
– MARK II của hãng General Atomic thuộc công ty General
Dynamics, có công suất danh định là 250 kW. Lò sử dụng nhiên
liệu Uranium 235 được kích hoạt bằng nguồn nơtron chậm để tạo
phản ứng nhiệt hạch dây chuyền và chất phóng xạ.

Sau một thời gian lắp đặt và thử nghiệm, lò hạt nhân DLR – I
(Dalat Reactor – I) là lò hạt nhân đầu tiên ở Đông Nam Á đã đạt
trạng thái “tới hạn” vào lúc 12 giờ 40 phút ngày 26-2-1963 và
chính thức đi vào hoạt động theo công suất danh định từ ngày
3-3-1963.

Các bộ phận nghiên cứu khoa học của Trung tâm Nghiên cứu Nguyên
tử Đà Lạt từ khi được thành lập đến trước ngày đất nước được
giải phóng (30-4-1975) gồm có: Phòng Vật lý lò, Phòng Kiểm soát
Phóng xạ, Phòng Điện tử, Phòng Vật lý hạt nhân, Phòng Hoá học
Phóng xạ, Phòng Sinh học Phóng xạ và một thư viện với hơn 3.000
đầu sách, hàng trăm tạp chí khoa học và hơn 30.000 báo cáo khoa
học để phục vụ cho công tác nghiên cứu hoặc tham khảo.

Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử Đà Lạt triển khai 3 chương trình
chính:

–  Chương trình khai thác lò phản ứng:  Lò phản ứng hạt nhân có
khả năng sản xuất nhiều loại đồng vị phóng xạ khác nhau, không
những để bảo đảm cho các hoạt động của Trung tâm mà còn cung ứng
cho các cơ quan khảo cứu khoa học hay ứng dụng kỹ thuật hạt nhân
khác.

–  Chương trình huấn luyện, đào tạo về kỹ thuật: Tổ chức các lớp
huấn luyện ở trình độ đại học để đào tạo những chuyên viên kỹ
thuật nguyên tử ứng dụng vào các mục tiêu hòa bình nhằm phục vụ
cho các ngành của nền kinh tế – xã hội.

–  Chương trình nghiên cứu khoa học: Xúc tiến khảo cứu khoa học
và thực hiện một số ứng dụng thực tiễn của kỹ thuật hạt nhân
trong đời sống.

Trong giai đoạn 1968 – 1975, Trung tâm hoạt động cầm chừng và
không có những kết quả nổi bật. Trước thời điểm Đà Lạt được giải
phóng, Mỹ đã tiến hành thu hồi các thanh nhiên liệu của lò phản
ứng và mang về Mỹ.

Sau ngày miền Nam được giải phóng, Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà
Lạt được thành lập trên cơ sở tiếp quản Trung tâm Nghiên cứu
Nguyên tử và được sử dụng thêm toàn bộ cơ sở vật chất tại số 13
đường Đinh Tiên Hoàng, thành phố Đà Lạt.

Theo thỏa thuận hợp tác giữa hai nước Liên Xô và Việt Nam vào
năm 1979, thiết kế kỹ thuật khôi phục và mở rộng lò phản ứng hạt
nhân Đà Lạt được các chuyên gia Liên Xô thực hiện và được phê
duyệt. Công trình khôi phục và nâng công suất lò phản ứng được
tiến hành trong hai năm 1982 – 1983. Đến ngày 20-3-1984 lò phản
ứng hạt nhân Đà Lạt chính thức đưa vào hoạt động với công suất
danh định 500 kW.

Hiện nay, Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt được giao những nhiệm
vụ cơ bản như sau:

* Tổ chức triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng
kỹ thuật hạt nhân và năng lượng nguyên tử trên nhiều lĩnh vực
khác nhau để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của
đất nước.

* Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo nhân lực cho sự
phát triển của Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt và ngành khoa học
hạt nhân của nước ta.

* Quản lý vận hành an
toàn và khai thác sử dụng có hiệu quả hoạt động của lò phản ứng.
Ngoài công tác bảo đảm an toàn lò phản ứng, Viện còn hỗ trợ kỹ
thuật trong việc quản lý Nhà nước về an toàn bức xạ, an toàn hạt
nhân và xử lý chất thải phóng xạ cho các đơn vị sử dụng kỹ thuật
hạt nhân hay những thiết bị có phóng xạ như máy chiếu X Quang,
tham gia nghiên cứu quan trắc và bảo vệ môi trường.

* Mở rộng hợp tác trong nước và nước ngoài để trao đổi khoa học,
các sản phẩm dịch vụ và chuyển giao quy trình công nghệ hạt
nhân.

Kể từ khi lò phản ứng hạt nhân được khôi phục và nâng cấp, Viện
Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt đã tiến hành nghiên cứu và phát triển
ứng dụng kỹ thuật hạt nhân phục vụ có hiệu quả cho các mục tiêu
hòa bình để phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong nhiều lĩnh
vực khác nhau:

–  Điều chế và sản xuất các đồng vị phóng xạ và các dược chất
đánh dấu phục vụ cho nhu cầu chẩn đoán và chữa trị bệnh của
ngành y tế.

–  Sử dụng nguồn nơtron của lò phản ứng để ứng dụng vào kỹ thuật
phân tích kích hoạt nhằm phân tích thành phần, hàm lượng các
nguyên tố trong các mẫu vật khác nhau với độ chính xác cao.

–  Sử dụng nguồn Coban 60 (Co-60) với hoạt độ ban đầu là 16,5
kCi được lắp đặt tại Lò phản ứng Hạt nhân Đà Lạt vào năm 1981 để
ứng dụng công nghệ bức xạ phục vụ các mục tiêu kinh tế – xã hội:
Bảo quản nông sản, thực phẩm, cải tạo sinh khối, bảo đảm chất
lượng sản phẩm hàng hóa bằng phương pháp chiếu xạ khử trùng.
Nghiên cứu ảnh hưởng của bức xạ lên các hệ sinh vật, gây đột
biến các giống cây trồng, để tăng độ nẩy mầm, tạo ra các giống
có năng suất cao hoặc thích hợp với điều kiện canh tác ở địa
phương. Khử trùng các thiết bị y tế bằng phương pháp bức xạ hạt
nhân.

–  Tiến hành nghiên cứu cơ bản về vật lý hạt nhân, vật lý
nơtron; sử dụng các kênh ngang của lò phản ứng để giúp cho công
tác vận hành và khai thác lò phản ứng được an toàn và có hiệu
quả hơn.

–  Trong lĩnh vực điện tử hạt nhân, Viện nghiên cứu chế tạo các
khối điện tử và các hệ thống điện tử hạt nhân chuyên dùng phục
vụ cho yêu cầu của ngành y tế, công nghiệp và nghiên cứu khoa
học.

–  Đào tạo chuyên viên kỹ thuật cho các ngành điện nguyên tử, kỹ
thuật hạt nhân.

Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt đã bảo đảm vận hành an toàn lò
phản ứng, hỗ trợ giúp đỡ bảo đảm an toàn và có hiệu quả cao cho
các ngành ứng dụng kỹ thuật hạt nhân và đồng vị phóng xạ, đã góp
phần phục vụ thiết thực cho nền kinh tế quốc dân. Cùng với những
kết quả đạt được trong thời gian qua, hiện nay Viện Nghiên cứu
Hạt nhân Đà Lạt được Chính phủ giao nhiệm vụ tham gia cùng các
ngành hữu quan “Nghiên cứu xây dựng các nhà máy điện nguyên tử
của nước ta trong chiến lược quy hoạch dài hạn về năng lượng
trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”.

Đánh giá hoạt động của Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, vào năm
1991, ông Hans Blix, Tổng Giám đốc Cơ quan Năng lượng Nguyên tử
Quốc tế (IAEA) đã có ý kiến “là lò phản ứng được khai thác có
hiệu quả nhất trong các nước đang phát triển”.